Hai Lá Cờ, Hai Bên Chiến Tuyến:
Tổ Quốc VN Và “Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa”
(Bài I)
Trần Quốc Kháng
* Ôn lại những trang lịch sử nước nhà, ai cũng thấy các vị Anh Hùng Hào Kiệt VN, đều lấy lòng NHÂN TỪ và CHÂN THÀNH làm gốc. Từ lời nói đến việc làm, Tiền Nhân đã làm sáng tỏ Chính Nghĩa Quốc Gia, hoàn toàn đối nghịch với bản chất BẤT NHÂN, PHI DÂN TỘC và XẢO QUYỆT khôn lường, xuất phát từ tà thuyết Mác-Lênin mà Hồ Chí Minh đã mang từ Liên Sô về áp đặt trên quê hương chúng ta để bành trướng “Tổ Quốc XHCN”.
* Việt Nam Cộng Hòa và “Cộng Hòa XHCN Việt Nam” chỉ khác nhau có 4 chữ “XHCN”. Khi người Cộng Sản trở về với Tổ Quốc VN, xóa bỏ XHCN thì 2 phía đều là Cộng Hòa. Được vậy, đương nhiên ranh giới Quốc Cộng không còn, thảm cảnh “huynh đệ tương tàn” tự nhiên tan biến.
Trần Quốc Kháng
Kể từ ngày miền Nam thất thủ đến nay, hơn 33 năm trời đã trôi qua. Mặc dù VN Cộng Hoà đã xụp đổ, chiến tranh đã chấm dứt, nhưng ranh giới hay chiến tuyến giữa 2 phía Quốc Gia và Cộng Sản vẫn còn đậm nét. Đến khi nào, ranh giới ấy mới phai mờ trong tâm trí của tất cả mọi người?
Ở trong nước, sách báo, phim ảnh, tài liệu, bản tin, mới và cũ đủ loại, do nhà nước VC ấn hành, không nhiều thì ít, không công khai thì tiềm ẩn ý tưởng, theo “đường xưa lối cũ” mạt sát phía Quốc Gia hay VN Cộng Hòa. Đồng thời, CSVN còn lùng bắt những người tranh đấu cho Dân Chủ Tự Do, lùng bắt những người phản đối đảng CSVN dâng lãnh thổ và lãnh hải cho Tàu Cộng. Chúng buộc tội các nạn nhân là “phản động” hay “phá rối trị an”.
Ở hải ngoại, chuyện Quốc Cộng sôi nổi hơn nhiều, nhất là trên mạng lưới điện toán toàn cầu. Vì mọi người được quyền Tự Do ngôn luận hoặc biểu lộ tư tưởng của mình. Nên phía Cộng Sản cùng với lá cờ Đỏ Sao Vàng bị dân chúng tỵ nạn — bao gồm cả các viên chức cũ của VN Cộng Hoà và những người yêu chuộng Dân Chủ Tự Do — đả kích rất mãnh liệt. Ngược lại, phía Cộng Sản và tay sai “nằm vùng” trong cộng đồng tỵ nạn tiếp tục gia tăng nỗ lực, bôi nhọ những người Quốc Gia, hoặc đánh phá các đảng phái chính trị đấu tranh dưới lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Đâu là nguyên nhân sâu xa sinh ra ranh giới Quốc Cộng? Tại sao dân tình ly tán, xã hội bất an, kinh tế phát triển khó khăn, đời sống dân chúng ghèo khổ, lầm than? Làm thể nào để xóa bỏ ranh giới Quốc Cộng trong thâm tâm người Việt chúng ta?
- Vì Ai Gây Dựng Cho Nên Nỗi Này?
Ở trong đại khối Quốc Dân, có hàng triệu người như chúng tôi, từ tư tưởng đến việc làm hoàn toàn trái ngược với đảng CSVN — dẫn đầu là Hồ Chí Minh. Chứng cớ cụ thể là trên trang 351 của cuốn “Tuyển Tập Hồ Chí Minh”, xuất bản năm 1960. Trong bản “Báo Cáo Chính Trị”, đọc trước Đại Hội Đảng lần thứ II, Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố:
“Sau ngày Cách mạng tháng Mười (Nga) thành công, Lê-Nin lãnh đạo việc xây dựng Quốc tế Cộng sản. Từ đó, vô sản thế giới, cách mạng thế giới thành một đại gia đình, mà Đảng ta là một trong những CON ÚT của đại gia đình ấy”.
Như vậy thì rõ ràng, Hồ Chí Minh đã tự nguyện, tôn kính Lê-Nin là CHA. Nước VN do đảng CSVN lãnh đạo, hiển nhiên trở thành chư hầu của Đế Quốc Đỏ Liên Sô. Lẽ dĩ nhiên CHA bảo sao, CON phải vâng lời như vậy. Đế Quốc Đỏ ban lệnh thế nào, chư hầu phải cúi đầu làm theo như thế.
Không hiểu quý vị có cảm nghĩ thế nào? Đó là điều vinh quang hay ô nhục cho Hồ Chí Minh và đảng CSVN? Đó là điều “vinh quang” hay Ô NHỤC cho đất nước khi sử dụng lá cờ Máu Sao Vàng của đảng CSVN làm “Quốc Kỳ”?
Dù sao, Hồ Chí Minh cùng đảng CSVN đã đi ngược lại truyền thống yêu chuộng Độc Lập Tự Do của đại khối Quốc Dân — hay Dân Tộc VN — từ thời Quốc Tổ Hùng Vương lập quốc. Ngay cả khi gần chết, Hồ vẫn ngoan cố, viết di chúc tỏ ý ước ao “khi xuống âm phủ được gặp cụ Mác, cụ Lê”. Hiển hiện, đó là “2 vị Quốc Tổ Xã Hội Chủ Nghĩa” mà Hồ cùng đồng đảng tôn thờ bên cạnh “Mao Chủ Tịch” của Tàu Cộng.
Ngược lại là đại khối Quốc Dân. Hầu như ai đến lúc lâm chung cũng mong ước, khi xuống âm phủ, sẽ được gặp Tổ Tiên hay Ông Bà Cha Mẹ nơi Cõi Phật hay Cõi Chúa. Riêng đối với thành phần cựu Quân Nhân VN Cộng Hòa như chúng tôi, nhiều người có thêm ao ước: Khi xuống âm phủ, mong có dịp đến chầu vua Hùng Vương cùng các Anh Hùng dân tộc như vua Quang Trung và Đức Trần Hưng Đạo để TẠ TỘI. Vì chúng tôi là những người cầm súng chiến đấu, nhưng không hoàn thành được trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc VN năm 1975.
Thật ra, còn hàng trăm hay cả ngàn chuyện đối nghịch, liên tục xẩy ra trên đất nước chúng ta từ khi Cộng Sản xuất hiện năm 1925. Chỉ vì Hồ Chí Minh, “người cha già muôn vàn kính yêu” của đảng CSVN, sau khi đi làm bồi tàu cho Pháp thì đến Mạc Tư Khoa bên Liên Sô. Ở đó, Hồ được DƯỠNG DỤC — có nghĩa là được nuôi nấng và dậy bảo — để trở thành người Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế. Khi Liên Sô sai khiến, Hồ đem thân khuyển mã, thi hành mệnh lệnh, đem chủ nghĩa Mác-Lênin về áp đặt trên đất nước chúng ta.
Đó là cội nguồn phát sinh ra 2 bên chiến tuyến, một bên là đại khối Quốc Dân phụng sự Tổ Quốc VN, một bên là Cộng Sản, phục vụ “Tổ Quốc XHCN” ở bên Liên Sô.
Đó là cội nguồn, làm cho Đất Nước chia đôi suốt 20 năm theo Hiệp Định Genève, do Cộng Sản và Liên Hiệp Pháp ký kết năm 1954.
Đó là cội nguồn gây nên thảm cảnh chiến tranh máu lửa ròng rã suốt 30 năm trời (1945 – 1975).
Nói ngắn gọn là băng đảng CSVN — cầm đầu là Hồ Chí Minh — đã TỪ BỎ Tổ Quốc VN để cúc cung tận tuỵ “Tổ Quốc XHCN” bên Liên Sô. Do đó mới có thảm cảnh chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Do đó mới có ranh giới Quốc Cộng.
Đúng là như vậy. “Việt Nam Cộng Hòa” và “Cộng Hòa XHCN Việt Nam” khác nhau có 4 chữ “XHCN”. Khi người Cộng Sản trở về với Tổ Quốc VN, xóa bỏ 4 chữ XHCN thì 2 phía đều là Cộng Hòa. Được vậy, đương nhiên ranh giới Quốc Cộng không còn, thảm cảnh “huynh đệ tương tàn” tự nhiên tan biến.
Quả là điều bất hạnh cho dân tộc VN, giấc mơ ấy chưa trở thành sự thật như ở bên Liên Sô và các nước Đông Âu. Có hàng triệu đảng viên Cộng Sản, đã biết “cải tà quy chính”, đồng khởi vùng lên quẳng Mác-Lênin vào “xọt rác lịch sử” để trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia, lấy Dân Chủ Tự Do làm nền tảng cho thể chế chính trị. Rõ ràng là “Mẫu Quốc” Liên Sô đã “ăn năn hối cải”, dẹp bỏ lá cờ “Máu Búa Liềm” để sử dụng lá cờ Chính Thống của Quốc Gia Nga với ba màu “Đỏ, Trắng, Xanh”.
Nói cách khác là “Quốc Tế Vô Sản” đã phá sản. Đế Quốc Đỏ Liên Sô cùng các nước Cộng Sản Đông Âu đã HỒI CHÁNH tập thể. Hiện thời CSVN chỉ còn quan thầy Tàu Cộng. Nhưng ở bên Tàu, “linh hồn Mác-Lênin” cũng đã cúi đầu đi theo chiều hướng “Kinh Tế Thị Trường” của chủ nghĩa Tư Bản!
Thế mà CSVN vẫn ngoan cố, tiếp tục cho tay sai áp dụng chiến thuật “Ba Mặt Giáp Công”.
Thứ Nhất, chúng tung ra những chiêu bài bịp bợm, kêu gọi “hòa hợp hoà giải”, kêu gọi xóa bỏ ranh giới Quốc Cộng, kêu gọi “đoàn kết” dưới lá cờ Máu Sao Vàng để “thờ Mao chủ tịch thờ Stalin bất diệt” — như lời VC Tố Hữu, “Trưởng Ban Văn Hoá Tư Tưởng Trung Ương” đã xác nhận thú.
Thứ Hai, chúng “xuất cảng” ra hải ngoại những “chiến sĩ Dân Chủ” CUỘI, “phản tỉnh” CUỘI, tổ chức “đấu tranh” CUỘI. Ngay sau đó, bọn thiên tả, hay “trở cờ” trong cộng đồng VN tỵ nạn, “đánh trống khua chiêng” om xòm trên các hệ thống truyền thông. Nhiều người mắc mưu tưởng là thật, để rồi mất thời giờ, mất công tranh cãi với những người bất đồng ý kiến. Hệ qủa là khối tỵ nạn VC bị phân hóa.
Thứ Ba, chúng cho bọn bồi bút viết sách báo, bôi nhọ các Anh Hùng Hào Kiệt VN để chuẩn bị dư luận, VIẾT LẠI LỊCH SỬ VN. Chúng đang sửa soạn cho tương lai xa, dần dần sẽ XOÁ BỎ TỔ QUỐC VN để thay vào đó là “Tổ Quốc XHCN”. Gần gũi và thực tế hơn là CSVN muốn làm đẹp lòng quan thầy Tàu Cộng. Chỉ vì tất cả các vị Anh Hùng Hào Kiệt VN đều là người Quốc Gia Chân Chính, đã giáng những đòn chí tử khi giặc Tàu xâm lấn VN. Như vua Quang Trung chẳng hạn. Sự nghiệp cứu quốc của Ngài đã bị bọn bồi bút như Nguyễn Huy Thiệp, Trần Độ... và Nguyễn Gia Kiểng viết sách báo thoá mạ.
- Quốc Gia Và Cộng Sản: Hai Thái Cực Đối Nghịch
Trong cuốn "Lịch Sử đảng CSVN" do Việt Cộng xuất bản năm 1979, đảng CSVN đã khẳng định:
"Chúng ta theo Chủ Nghĩa Quốc Tế, KHÔNG THEO CHỦ NGHĨA QUỐC GIA. Chúng ta phải nâng cao tinh thần đấu tranh giải phóng... nghĩa là HÌNH THỨC THÌ DÂN TỘC MÀ NỘI DUNG LÀ QUỐC TẾ”.
Rõ ràng như năm với năm là mười. Đảng CSVN đã TỪ BỎ Quốc Gia, TỪ BỎ Đất Nước, TỪ BỎ Dân Tộc, TỪ BỎ Tổ Quốc VN để đi theo “Chủ Nghĩa Quốc Tế”. Hiển hiện Đất Nước, Dân Tộc và Tổ Quốc VN đối với Cộng Sản, chỉ còn lại là những chiêu bài. Điển hình là “Mặt Trận Tổ Quốc” và “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” chỉ là 2 công cụ để đảng CSVN “lừa già dối trẻ” không hơn không kém. Đồng thời, việc Hồ cùng đồng đảng, 2 lần dâng lãnh thổ và lãnh hải của Tổ Quốc VN cho Tàu Cộng là những bằng cớ hùng hồn cho thấy thực chất của đảng CSVN đối với Đất Nước.
Vì thế, trong bài “Quốc Kỳ Và Quốc Ca VN” của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, phổ biến trên đặc san Tự Do Dân Bản, số 27 & 28, phát hành hồi tháng 3 & 4 năm 1988, tác giả đã viết nguyên văn:
“Chúng ta không nên quên rằng hai điều căn bản trong điều lệ của Đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế do Lenin thành lập là người tuyên thệ vào đảng này phải xem Liên Sô là tổ quốc số một của mình và phải triệt để tuân lịnh cơ quan lãnh đạo của Đảng đặt tại Liên Sô. Lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ, Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN đã biểu lộ ý muốn xem lực lượng quân sự Việt Nam là một lực lượng phụ dịch cho Quân Đội Liên Sô, và như vậy thì dĩ nhiên nước Việt Nam Cộng Sản phải là một nước chư hầu của Liên Sô”.
Khi đối chiếu với tài liệu do CSVN xuất bản để kiểm chứng, quả thật nhận định của giáo sư Huy rất chính xác. Chứng cớ là trong cuốn "Chủ Nghĩa Quốc Tế Vô Sản" do VC xuất bản, đã xác nhận:
"Đảng ta ngay từ khi mới thành lập đã khẳng định mình là một đơn vị của đoàn quân QuốcTế Vô Sản".
Vả lại, Hồ Chí Minh cũng đã xác nhận vai trò tôi tớ của hắn, phục vụ “Tổ Quốc XNCH” rất tận tuỵ:
"Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản để giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ".
Hai chữ “cách mạng” trong câu nói của họ Hồ có nghĩa là “cách mạng vô sản”. Đó là việc áp đặt chủ nghĩa phi nhân Mác-Lênin trên quê hương chúng ta để “mở mang bờ cõi” của “Tổ Quốc XNCH”. Trong 30 năm chiến tranh, dưới chiêu bài "đánh Pháp chống Mỹ", Quốc Tế Cộng Sản đã sử dụng đất nước VN làm bãi chiến trường. Quốc Tế Cộng Sản đã đem "núi xương sông máu" của dân tộc VN, lót đường cho chủ nghĩa phi nhân Mác-Lênin bành trướng. Kết quả hiện thời, sau 28 năm chiến tranh chấm dứt, VN vẫn là nơi nghèo khổ, lầm than và nhiều tệ đoan xã hội nhất thế giới.
Chỉ cần chừng ấy chứng cớ cũng đủ chứng minh, từ tư tưởng đến việc làm, CSVN hoàn toàn đi ngược lại nguyện vọng của đại khối Quốc Dân VN mà Quốc Tổ là vua Hùng Vương. NGƯỜI vừa có công lập quốc, vừa có công khai sáng Chủ Nghĩa Quốc Gia trên quê hương chúng ta. Nhưng CSVN đã TỪ BỎ, đi theo “Tổ Quốc XHCN” bên Liên Sô.
Đúng là như vậy. Nếu hiểu 2 chữ Quốc Gia theo "Quốc Tế Công Pháp" hiện thời quy định gần 5 ngàn nằm trước đây, nước Văn Lang của dân tộc chúng ta đã hội tụ đủ 3 thành tố Lãnh Thổ, Dân Chúng và Chính Quyền để trở thành Quốc Gia.
Nếu dịch 2 chữ "Quốc Gia" sang tiếng Mỹ là NATION và tiếng Pháp là ÉTAT thì mới dịch được chữ QUỐC, còn thiếu chữ GIA. Vì theo nguyên ngữ tiếng Hán thì QUỐC là nước, GIA là nhà. Do đó khi hiểu sâu đậm hơn, người Quốc Gia Chân Chính là người vừa yêu thương GIA ĐÌNH, vừa yêu thương TỔ QUỐC. Nói nôm na là chăm lo cho gia đình mà vẫn không quên nghĩa vụ đối với Đất Nước. Vì Đất Nước và Gia Đình song hành với nhau như hình với bóng. Nên từ ngàn xưa, VN ta mới có câu "nước mất nhà tan". Người Tàu có câu như "quốc phá gia vong" hay “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Đọc lại những trang sử nước nhà, ai cũng thấy tất cả các Anh Hùng Hào Kiệt VN đều là những người Quốc Gia Chân Chính. Hiển nhiên không có vị nào dính líu gì đến "Chủ Nghĩa Cộng Sản”. Tiền nhân chúng ta đã thể hiện lòng YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN cùng lòng CHÂN THÀNH qua lời nói và việc làm, hoàn toàn đối nghịch với chủ trương sử dụng BẠO LỰC và GIAN TRÁ của Hồ Chí Minh và đảng CSVN.
1- Trong thời quân chủ cực thịnh khi xưa, vua Lý Thánh Tông nổi danh là ông vua NHÂN TỪ, thương dân như thương con. Ngài đã từng nói:
"Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, nhưng vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tù tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ nay về sau, tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi".
Một hôm trời rét, nhà vua bảo cận thần:
"Trẫm ở trong cung ăn mặc thế này mà còn rét, nghĩ những tù phạm trong ngục, phải trói buộc cơm không đủ ăn, vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm."
Nói xong nhà vua ban lệnh lấy thêm chăn chiếu cho tù nhân và mỗi ngày cho họ ăn 3 bữa no. Quốc sách Nhân Trị của nhà vua đã cải hóa được rất nhiều người, khiến mức độ phạm pháp trong xã hội gỉam thiểu, không có trường hợp nào trầm trọng đáng kể.
2- Trong thời gian chống quân Mông Cổ, Đức Trần Hưng Đạo đã mở đầu bản hịch Cứu Quốc bằng lời lẽ đầy thù hận, phát xuất vì tình YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN:
"Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được lột da quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa thì cũng đành lòng".
Vì tình yêu nước thương dân thúc đẩy, Người sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đại nghĩa. Trong thời kỳ oanh liệt ấy, cũng có một số quan quân "xôi thịt" trong triều đình, cũng có bầy "giá áo túi cơm" trong xã hội. Chẳng thế mà trong Bản Hịch, Đức Thánh Trần đã liệt kê chúng là phường "vô liêm sỉ":
"Thấy nước nhục mà không biết lo, nhìn quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hàng giặc mà không biết tức".
3- Trong thời giặc Minh đô hô nước ta, Lê Lợi là "ĐẠI ĐỊA CHỦ". Ngài có lòng ÁI QUỐC và chí lớn từ lúc lúc thiếu thời và thường nói với bạn hữu:
"Đại trượng phu sinh ra ở đời để phò nguy cứu khổ, lưu tiếng lại nghìn năm sau, chớ đâu để làm tôi tớ cho người ta".
Hồi ấy, nhiều lần giặc Tàu đã tìm cách mua chuộc ông, nhưng lần nào chúng cũng bị thất bại. Cả vùng Lam Sơn ai cũng biết ông là người giàu lòng nhân ái. Ai nghèo, ông cho tiền. Ai sa cơ, ông tận tình giúp đỡ. Sinh trưởng trong gia đình giàu có, mà lại thừa trí thông minh, nhưng Lê Lợi không muốn đeo đuổi việc học để ra làm quan. Ông nuôi chí cả nên chiêu hiền đãi sĩ, tìm cách giải phóng quê hương. Sau khi khởi nghĩa, ông thường tâm sự với quần thần:
"Trẫm đối với ai cũng hết lòng thành thật. Thà để người ta phụ mình, mình chớ có phụ người ta".
4- Vị khai quốc công thần Nguyễn Trãi mang nặng lòng “thù nhà nợ nước”, đã chủ trương:
"Đem ĐẠI NGHĨA thắng hung tàn; lấy CHÍ NHÂN thay cho cường bạo".
5- Trước khi đem quân tiêu diệt giặc Thanh, vua Quang Trung, vị Anh Hùng có thiên tài điều binh khiển tướng ‘th ần tốc’, đã tâm sự với cận thần qua lời nói, phảng phất lòng YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN:
"Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi, ta ra chuyến này, thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đánh đuổi quân Tàu chẳng qua chỉ 10 ngày là xong việc. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 lần nước ta, sau khi thua trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ lại mưu báo thù như thế thì đánh nhau mãi không thôi. Dân ta bị hại nhiều, TA ĐÂU NỠ THẾ. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi 10 năm nữa, nước ta dưỡng sức phú cường rồi thì không phải sợ chúng nữa".
Qua những trang sử nêu trên, ai cũng thấy các vị Anh Hùng Hào Kiệt VN, đều lấy lòng NHÂN TỪ và CHÂN THÀNH làm gốc. Từ lời nói đến việc làm, Tiền Nhân đã làm sáng tỏ Chính Nghĩa Quốc Gia, hoàn toàn đối nghịch với bản chất vong bản, BẤT NHÂN, PHI DÂN TỘC và XẢO QUYỆT khôn lường, xuất phát từ tà thuyết Mác-Lênin mà Hồ Chí Minh đã mang từ Liên Sô về áp đặt trên quê hương chúng ta nhằm bành trướng “Tổ Quốc XHCN”. (1)
Chứng cớ là trong “kinh điển Mác-Lê-nin” cũng như trên thực tế, Hồ Chí Minh cùng đồng đảng đã được dậy bảo, phải thực hiện “Cách Mạng Vô Sản” bằng bạo lực và gian trá. Lê-nin đã khẳng định:
“Thứ bạo lực này đứng trên mọi luân lý, mọi luật pháp và trên cả Quốc Gia Dân Tộc”.
Vì vậy, nhìn lại lịch sử nước nhà, một ngàn năm giặc Tàu đô hộ dân ta, một trăm năm giặc Pháp giày xéo đất nước ta, nhưng không ai thấy giặc nào ác độc và xảo quyệt như giặc Cộng. Chưa ai thấy thời kỳ nào, Xã hội VN có nhiều chuyện vô luân, nhiều chuyện bất nhân như thời “Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Chứng cớ rõ ràng là sau khi chiếm được miền Bắc, CSVN đã chủ mưu, xách động người nghèo, đấu tố người giàu. Thảm trạng cướp cuả giết người trong những năm “Cải Cách Ruộng Đất” diễn ra khắp nơi. Luân thường đạo lý trong xã hội tiêu tan. Con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng. Họ hàng hoặc bạn hữu nghi kỵ nhau, tố cáo nhau, hậm hực tranh giành nhau từng ly từng tý!
Hiện nay, xã hội VN ở trong tình trạng "thượng bất chánh, hạ tắc loạn". Bên trên, băng đảng “Mafia Đỏ” tham nhũng ‘lừng danh’ trên thế giới: Ðánh cắp công quỹ, hối mại quyền thế, làm nhiều chuyện hại dân hại nước. Bên dưới, băng đảng “Mafia Đen” là Năm Cam cùng ma cô, du đãng, cướp trộm hoành hành.
Hồi đầu năm 2003 vừa rồi, báo chí VC đã tiết lộ, có cả ngàn cán bộ Cộng Sản, kể cả đảng viên cao cấp — như cựu thủ tướng VC Võ Văn Kiệt; Trần Mai Hạnh, Giám Đốc đài phát thanh VC; Phạm Sĩ Chiến, Phó Giám Đốc Viện Kiểm Soát Nhân Dân v.v. — đã đỡ đầu, che chở, hay đồng loã với trùm Mafia Năm Cam trong các "dịch vụ”:
Mãi dâm, tống tiền, thủ tiêu nhân chứng, cướp đoạt tài sản của dân, buôn lậu ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ thơ ra ngoại quốc.
Đó chỉ là vài nét đại cương về tai họa cùng tệ đoan xã hội VN do Hồ Chí Minh cùng đồng đảng đã gây ra. Như đã trình bầy ở phần trên, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã TỪ BỎ Quốc Gia, TỪ BỎ Đất Nước, TỪ BỎ Dân Tộc, TỪ BỎ Tổ Quốc VN để đi theo “Chủ Nghĩa Quốc Tế”, phục vụ “Tổ Quốc XNCH” bên Liên Sô. Do đó mới có ranh giới giữa Quốc Gia và Cộng Sản. Đất Nước, Dân Tộc, Tổ Quốc VN đối với chúng chỉ là những chiêu bài không hơn không kém. Điển hình là “Mặt Trận Tổ Quốc” và “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” chỉ là 2 công cụ để đảng CSVN “lừa già dối trẻ”. Đồng thời, Hồ cùng đồng đảng, 2 lần dâng lãnh thổ và lãnh hải của Tổ Quốc VN cho Tàu Cộng.
Đó là những bằng cớ hùng hồn cho thấy thực chất của CSVN đối với Đất Nước.
Đó là những nguyên nhân sâu xa, tạo ra làn ranh Quốc Cộng.
Ngày Quốc Nạn Cộng Sản
2–9-2003
Trần Quốc Kháng
ToQuocVN-XHCN-Uni1-Paris
Rev 29/7/09
-------------------------
(1) Khoảng giữa thập niên 1980, chúng tôi đã trình bầy ý tưởng này trong cuốn “Nửa Đường Gẫy Cánh” và những bài viết khác liên quan đến 2 thái cực đối nghịch — Quốc Gia và Cộng Sản — để phản bác bọn bồi bút VC đã thoá mạ các Anh Hùng Hào Kiệt VN.
(Xin Xem Tiếp Bài II)
No comments:
Post a Comment