Cuộc Thánh Chiến của Cộng Sản
Tác giả: Paul Kengor
Dịch giả: Trần Quốc Việt
Giới thiệu tác giả:
Ông Paul Kengor là giảng sư về môn khoa học chính trị tại trường Đại Học Grove City ở thành phố Grove City, thuộc tiểu bang Pennsylvania. Ông đã viết rất nhiều sách và trong số đó là những cuốn God and Ronald Reagan: A Spiritual Life (Harper Collins, 2004), The Judge: William P. Clark, Ronald Reagan's Top Hand (Ignatius Press, 2007), and The Crusader: Ronald Reagan and the Fall of Communism (HarperPerennial, 2007).
Như Mikhail Gorbachev đã khẳng định, Cộng Sản Nga Sô phất động toàn diện cuộc “chiến tranh tôn giáo”1. Hắn hồi tưởng lại Bolsheviks, kẻ đi trước hắn, ngay cả sau khi cuộc nội chiến đã chấm dứt vào khoảng đầu thập thiên 1920, trong thời “thái bình”, phải “ tiếp tục tàn phá các nhà thờ, bắt giữ các giáo sĩ, và hủy diệt chúng. Cuộc chiến này không còn có thể hiểu được và cũng chẳng còn gì gọi là chính nghiã. Chủ Nghiã Vô Thần đã trở thành man rợ trong quốc gia của tôi vào thời điểm đó.2
Nga Sô, quốc gia lãnh đạo khối Cộng Sản Quốc Tế, đã công khai thù nghịch với các tôn giáo và chính thức là một quốc gia vô thần; vô thần không có nghiã và phi tôn giáo hay phi tín ngưỡng, mà là “không đội trời chung với tôn giáo” và tuyệt đối không có Thượng Đế trong thế giới Cộng Sản. Tàn nhẫn hơn nữa, chủ nghiã vô thần biến thái thành chống tôn giáo một cách ác độc có hệ thống, thông thường là các chiến dịch bạo tàn để bài trừ tín ngưỡng. Điều này bắt đầu từ khi Cộng Sản Nga Sô thành hình và vẫn còn tiếp tục dưới những hình thái khác nhau trong các quốc gia Cộng Sản, từ Trung Cộng, Việt Nam Cộng Sản, Bắc Hàn, và Cu Ba.
Giáo Điều Cộng Sản
Nguồn gốc của thù hận và bất cộng đái thiên với tôn giáo nằm trong bản chất của Chủ Nghiã Cộng Sản. Mars đã phỉ báng tôn giáo như “liều thuốc phiện ru ngủ quần chúng,” và hắn chủ trương là “Chủ Nghiã Cộng Sản bắt đầu ở nơi nào Chủ Nghiã Vô Thần hiện hữu.” 3 Lenin nói thay cho cho Bolcheviks, trong bài diễn thuyết nổi tiếng của hắn ta vào ngày 2 tháng 10 năm 1920, Lenin đã nói toạc móng heo ra rằng “Chúng tôi không tin có Thượng Đế.” Lenin khẳng định rằng ”tất cả các sự thờ phượng thần thánh đều là mê tín dị đoan.” 4 Hắn ta viết trong lá thư vào tháng 11 năm 1913 rằng “tất cả những ý tưởng tôn giáo, ý tưởng về Thượng Đế, hoặc giả chỉ là “ve vãn” với Thượng Đế đều là hành vi tột cùng tồi tệ khôn tả, tột cùng nguy hiểm, sự “nhiễm độc” vô cùng xấu xa”. Ông James Thrower của trường đại học Virginia (một học giả người Nga và cũng là thông dịch viên) nói rằng trong lá thư này loại “nhiễm độc” mà Lenin nói đến là những chứng bệnh AIDS, HIV. 5
Lenin cũng viết trong lá thư gởi Maxim Gorky vào tháng giêng năm 1913 rằng: “không có gì đáng ghê tởm hơn tôn giáo.” 6 Vào ngày 25 tháng 12, năm 1919, Ngày lễ Nô En, Đồng Chí Lenin ban hành sắc lệnh, bằng chính chữ viết của hắn ta: “Phải chịu đựng với “Nikola” (ngày lễ của tôn giáo) là một điều xuẩn động – thất cả Cheka phải giữ vị trí báo động là hễ thấy ai không đến làm việc vì lý do ngày lễ tôn giáo (Nikola) thì phải bắn chết”. 7 Dưới sự thống trị của Lenin, đây không phải là sự việc xảy ra riêng biệt.
Song song với Trotsky, Lenin thành lập những đoàn thể với những tên gọi và chủ trương như Hội Đoàn Vô Thượng Đế, và cũng được biết đến với danh hiệu khác là Liên Đoàn Các Chiến Sĩ Vô Thượng Đế, có trách nhiệm là phất động phong trào chống tuyên truyền tôn giáo ở Nga Sô. 8 Cơ quan cuồng tín này tăng trưởng nhanh chóng dưới tay chân bộ hạ của Lenin, điều đáng kể nhất của Lenin, và ngay cả dưới quyền lãnh đạo Cộng Sản ôn hoà hơn là Nikita Khrushchev.
Cái chủ nghiã Vô Thần này là bản chất cá thể của con người Cộng Sản, ngay cả bọn Cộng Sản không có đủ quyền lực chính trị vững chắc – và không có khả năng khủng bố các tín đồ tôn giáo – vẫn cố gắng hết mình để khủng bố sự rao giảng và tổ chức tôn giáo và nhạo báng giễu cợt ý tưởng là Thượng Đế hiện hữu. Ngay ở nước Mỹ, đừng ngạc nhiên khi đi ngang qua một sạp báo và thấy tờ báo chạy hàng tít bằng chữ lớn như sau trên tờ Nhật Báo Lao Động, cơ quan tuyên truyền của Cộng Sản do CPUSA (Communist Party of USA): “KHÔNG CÓ THƯỢNG ĐẾ.” 9 Bọn Cộng Sảnh rất hãnh diện với chủ nghiã Vô Thần của chúng, và chúng tranh đấu cho bằng được.
Kỳ Thị một cách Bình Đẳng
Cuộc tấn công vũ trang nhắm vào tín ngưỡng đã không chỉ nhắm vào Thiên Chúa Giáo như – Đạo Tin Lành, Đạo Công Giáo, Đạo Chính Thống Giáo – mà kể cả Đạo Do Thái, Đạo Hồi Giáo, Đạo Phật, và các tín ngưỡng khác. 10 Cứ mỗi một vị Hồng Y Mindszenty ở Hung Gia Lợi, thì có một vị Hồng Y Wyszynski ở Ba Lan, một Richard Wurmbrand ở Romania, một Nguyễn Kim Điền hay Lê Hữu Từ hay Nguyễn Văn Lý ở Việt Nam, một Natan Sharansky hay Walter Ciszek ở Russia, một Vasyl Velychkovsky hay Severian Baranyk hay Zenobius Kovalyk ở Ukraine, một Moadedi clan ở Afghanistan, một Lutheran hay Methodist missionary hay môn đệ của đức Dạt La Lạt Ma ở bên Tầu, một bà sơ ở tù ở Cuba, hay một nhà sư Phật Giáo bị bắt buộc phải hoàn tục ở Cam Bốt. Dù cho kẻ bạo ngược đó là Fidel Castro hay Polpot hay Stalin hay Hồ Chí Minh hay Văn Tiến Dũng, chúng có cùng một bản chất: “Tôn Giáo là độc dược,” như Mao Trạch Đông đã tuyên bố và khẳng định như thế. Chủ Nghiã Cộng Sản lan tràn đến đâu, từ Đông sang Tây, từ Phi Châu đến Á Châu, từ Phnom Penh tới St. Peterburg, từ Bắc Kinh tới Hà Nội rồi thành phố Hồ Chí Minh, chúng đều liên tục truy kích tổng tấn công vào tôn giáo. Cộng Sản thường ngụy biện từ những chi tiết về phương pháp ứng dụng ý thức hệ của Marx, nhưng chúng đều nhất trí trong một quy định chung là: TÔN GIÁO LÀ KẺ THÙ, và là đối thủ KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG với sự điều khiển ý tưởng của Marx, và tôn giáo cần phải bị tiêu diệt bằng tất cả mọi giá dù cho có khó khăn và đẫm máu đến đâu.
Moscow là nguồn gốc và là cao điểm tột đỉnh của sách lược tàn nhẫn này. Cán bộ Cộng Sản cuồng tín của Nga Sô Apparat luôn đeo đuổi liên tục bành trướng chiến dịch bài trừ tôn giáo bởi những cán bộ Cộng Sản hung hãn ở bất cứ nơi nào có bọn lãnh đạo Cộng Sản phất động. Các cuộc đàn áp tôn giáo ở nhiều mực độ tàn khốc khác nhau ở khắp nơi ở Đông Âu. Thí dụ như Cộng Sản truyền bá chủ nghiã Vô Thần chống tôn giáo cho trẻ em học sinh vô cùng khắc nghiệt ở Tiệp Khắc vào thập niên 1970. Tiệp Khắc đã bị ô nhục về trạng thái vô thần này.
Romania là một trong số những quốc gia bị Cộng Sản đàn áp tôn nặng nề nhất. Sự thù hận tôn giáo ở quốc gia này đã để lại dấu tích qua những phương thức đàn áp lạ thường để tiêu diệt tôn giáo.
Romania: Chứng Nhân Richard Wurmbrand.
Trong sự học tập về Chủ Nghiã Vô Thần, Cộng Sản cho xuất bản và phổ biến rộng rãi những sách vở và tài liệu chống tôn giáo. Ở Romania, tác phẩm The lives of Saits của văn hào Romania, Sadoveanu, đã bị Cộng Sản cạo sửa và xuất bản lại với tên khác là The Legend of Saints.
Điều đáng chú ý là Cộng Sản không cấm đạo mà chúng xuyên tạc kinh điển của các tôn giáo. Đây là thực tế khác biệt ở Romania, ngay cả trước thời đại của Nicolai Ceausescu. Điều này không có nghiã là chỉ cấm đạo và cầm tù các mục sư, tu sĩ và tín đồ mà chúng còn áp dụng những sự tra tấn dã man để ép buộc tín đồ phải bỏ đạo và từ bỏ tín ngưỡng. Quản thúc, bịt miệng, và ngay cả hành hạ tín đồ trong ngục tù vẫn chưa đủ; Cộng Sản còn quyết định là chúng cần phải tra tấn tín đồ bằng những phương pháp cực kỳ dã man đến khi nào người tín đồ phải từ bỏ đức tin của họ.
Một chứng tích hiển nhiên nhất về thủ đoạn của Cộng Sản đã xử dụng đau khổ lạ thường để ép buộc ông Richard Wurmbrand, một vị mục sư đã chịu đựng 14 năm của địa ngục trần gian trong ngục tù Cộng Sản ở Romania. Sau này ông kể lại chi tiết trước Quốc Hội Hoa Kỳ về sự tàn bạo của Cộng Sản mà ông đã chứng kiến và trong cuốn sách Sự Khổ Sai cho Thiên Chúa xuất bản lần đầu vào năm 1967. Sau đây là một vài đoạn trích từ cuốn sách chứng nhân của ông mục sư Wurmbrand:
Hàng ngàn tín đồ của các tôn giáo bị Cộng Sản tống vào nhà tù khổ sai. Không phải chỉ là các tu sĩ mà cả những tín đồ thường dân, những thiếu niên nam nữ đã là chứng nhân cho đức tin của họ. Nhà tù chật cứng người, và ở Romania, cũng như tất cả các nước Cộng Sản khác, ở tù có nghiã là khổ sai … Một mục sư tên là Florescu đã bị hành hạ bằng thanh sắt nướng đỏ những mũi dao đâm và người. Chúng đánh đập ông cực kỳ tàn nhẫn. Chúng bắt chuột nhốt lại và bỏ đói, rồi sau đó lùa đàn chuột đói vào phòng giam ông qua đường ống cống lớn. Ông không ngủ được một giây khắc nào vì phải chiến đấu tự vệ cho sự sống còn với lũ chuột đói. Nếu ông ngưng chiến đấu trong giây khắc thì sẽ bị đàn chuột đói rỉa thịt cho đến chết.
Ông đã bắt buộc phải chiến đấu liên tục như thế trong hai tuần lễ, ngày cũng như đêm … Cuối cùng, chúng mang đứa con trai 14 tuổi của ông đến và dùng roi đánh con trai ông liên tục trước mặt ông, chúng ra điều kiện rằng chúng sẽ tiếp tục đánh con trai ông nh+ thế cho đến khi nào ông mục sư nói những điều gì chúng muốn ông phải nói. Tội nghiệp vị mục sư đã chịu đựng đến cùng cuồng trí, và ông phải khóc với con trai ông: “Alexander, cha phải nói những điều gì chúng muốn cha nói, vì cha không thể nào chịu đựng được cảnh chúng đánh đập và hành hạ con nữa!” Cậu bé trai trả lời cha: “Cha, đừng bắt buộc con phải bất hiếu khi có một người cha phản bội. Hãy chống trả lại chúng bằng sức chịu đựng. Nếu chúng giết con chết, thì con sẽ chết với một câu, ‘Chúa Giê Su và Tổ Quốc’.” Bọn Cộng Sản vô cùng tức giật trước nghiã khí của cậu bé trai và chúng nhẩy chồm lên và đánh đập cậu bé cho đến chết, máu văng tung tuóe trên tường trong phòng giam. Cậu bé đã chết để vinh danh Thượng Đế. Ông mục sư Florescu đáng thương của chúng ta đã hoàn toàn khác xưa sau khi ông phải chứng kiến tấn thảm kịch này.11
Mục sư Wurmbrand hồi tưởng lại hết chuyện hành hạ này đến chuyện tra tấn khác mà chính ông đã được chứng kiến. Ông không những chỉ thấy sự hành hạ tra tấn các tín đồ của ông nhưng chính ông cũng đã từng sống trong kinh nhiệm đó. Kẻ bắt giữ ông đã xẻo từng miếng thịt trên khắp cơ thể ông. Chúng đốt 18 lỗ trên cơ thể ông. Trong rất nhiều cách thức để hành hạ và tra tấn, ông đã chịu đựng cái thủ đoạn tra tấn mà chúng gọi là “phòng giam tủ lạnh” – Một cái hộp đông đá lớn. Người tín đồ sẽ bị giam vào trong hộp đông đá này với một mảnh vải che thân hay là hoàn toàn trần trường. Một bác sĩ của trại giam sẽ lén nhìn qua lỗ hổng nho nhỏ để kiểm tra xem triệu chứng của sự đông lạnh gần chết (không được chết), và hắn sẽ ra dấu cho bọn cai ngục, và chúng sẽ đến lôi người tù ra ngoài để cho ấm lại và không được chết. Tù nhân sẽ bị làm cho đông lạnh và làm cho ấm lại và cứu sống trong khoảnh khắc trước khi chết … và bọn cai ngục Cộng Sản cứ lập đi lập lại như thế….
Dĩ nhiên là tất cả những sự tàn bạo này làm cho bọn Cộng Sản vui mừng và thoả mãn. “Những sự bạo tàn mà Cộng Sản đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo vượt qua khỏi … sự tưởng tượng của con người,” Mục sư Wurmbrand viết. “Tôi thấy trên gương mặt của bọn cán bộ Cộng Sản hớn hở và vui sướng vô ngần. Chúng hò la vui mừng khi tra tấn và hành hạ các tín đồ Thiên Chúa Giáo rằng “Chúng ta là ác qủy!” Mục sư Wurmbrane gọi chúng là “quyền lực của ác qủy” mà chỉ có một quyền lực mạnh mẽ hơn mới chống trả được là “Quyền Lực của Thượng Đế.” Ông viết thêm:
Bọn cán bộ Cộng Sản thường nói với tôi là “Không có Thượng Đế, không có đời sau, không có sự trừng phạt ma qủy. Chúng ta muốn làm gì thì làm.” Và có tên cán bộ khác nói “Tôi cám ơn Thượng Đế, là đấng mà tôi không tin, đã cho tôi sống đến giờ khắc này là lúc mà tôi có thể bộc lộ được tất cả những tâm địa ác độc ma qủy của tôi.”
Tháng 5 năm 1966 chứng nhân trước Ủy Ban Quốc Phòng của Quốc Hội Hoa Kỳ, ông mục sư Wurmbrand thuật lại sự đóng đinh trên thánh giá của Cộng Sản. Tín đồ Thiên Chúa Giáo bị trói tay chân vào cây thánh gía suốt bốn ngày đêm. Như thế tưởng cũng đủ tàn nhẫn rồi. Nhưng Cộng Sản còn cố gắng tưởng tượng ra trò hành hạ để bảo đảm những người bị đóng đinh phải chịu đựng nhiều sự nhục nhã hơn Chúa Giê Su:
Người tín đồ bị đóng đinh vào thánh gía bị trói tay chân vào thánh giá và hàng ngàn tín đồ tù nhân khác phải đái ỉa vào mặt mũi và mình mẩy của người tín đồ tử tội. Sau đó thì chúng dựng đứng cây thánh giá lên đồng thời bọn cán bộ Cộng Sản chế nhạo và phỉ báng: “Nhìn vào Thiên Chúa của tụi bay đấy! Đẹp đẽ lắm phải không! Ông mang cả hương thơm lên Thiên Đàng!” …
Sau khi bị hành hạ cho đến cuồng trí, một linh mục đã bị bắt buộc phải dâng thánh lễ dùng phân và nước tiểu làm phép thánh thể của Chúa Giê Su. Chuyện này xảy ra ở nhà tù cải tạo ở Pitesti, Romanian. Sau đó tôi có hỏi vị linh mục tại sao ngài không lựa chọn sự chết thay vì chấp nhận chịu đựng sự nhạo báng phỉ nhục này. Ông trả lời: “Làm ơn đừng phê phán tôi! Tôi đã chịu đựng nhiều hơn Chúa Giê Su ngày xưa!” Tất cả những sự mô tả về địa ngục trong Kinh Thánh và “cái địa ngục” của Dante đều không thể so sánh được với sự hành hạ và tra tấn ở trong nhà tù cải tạo của Cộng Sản.
Đây chỉ là một phần nhỏ về những sự hành hạ tra tấn vô cùng tàn bạo và dã man trong một ngày Chủ Nhật và trong nhiều ngày Chủ Nhật trong nhà tù cải tạo Pitesti. Còn những chuyện khác thì câu trả lời đơn giản rằng không thể kể lại hết được. Tôi sẽ bị đứng tim và đứt gân máu nếu phải liên tục kể lại những chuyện này vì nó vô cùng ghê rợn và bẩn thỉu để viết xuống ….
Nếu tôi phải tiếp tục kể lại những sự hành hạ và khủng bố của Cộng Sản và những sự tự hiến của các tín đồ Thiên Chúa Giáo, thì suốt cuộc đời tôi cũng không bao giờ viết cho hết.
Điều chúng ta thấy ở đây là những hành vi, mà bộ óc người bình thường không thể tưởng tượng đựợc, nhưng Cộng Sản đã làm để tẩy rửa và tàn phá đức tin của những tín đồ. Thực tế là những Quốc Gia Cộng Sản đã tận tình bỏ ra rất nhiều thời gian và quyền lực để chứng tỏ sự cống hiến phi thường của chúng – Tận hiến đến cuồng tín và sắt đá – cho mục tiêu duy nhất là hủy diệt đức tin tôn giáo. Điều này cũng phản ảnh rõ tín điều của Cộng Sản rằng TÔN GIÁO LÀ KẺ THÙ KHÔNG ĐỘI TRỜI CHUNG VỚI TÍN ĐIỀU MÁC LÊ.
Cuối cùng thì sự khủng bố ác độc của Cộng Sản cũng đã bị chận đứng lại. Cứ mỗi một Richard Wumrbrand, hay mỗi một Baranyk mà Cộng Sản giết chết với vết chém hình thập tự giá trên ngực, hay là Zenobius Kovalk, bị xử tử bằng sự phỉ báng trên thập tự giá, đều sản xuất ra một Albanian tên là Agnes Gonxha Bojaxhiu (Mẹ Teresa), là người đã cầu nguyện cho linh hồn của chúng, hay là Karol Wojtyla (Đức Giáo Hoàng John Paul II), là người đã làm việc liên kết chặt chẽ với Ronald Reagan, Magaret Thatcher, Lech Walesa, và Vaclav Havel – và những người khác – để làm xập đổ Đế Quốc Cộng Sản Vô Thần.
Sự Thích Đáng Cho Thời Điểm Hiện Tại
Chiến Tranh Ý Thức Hệ với Đế Quốc Cộng Sản Nga Sô đã chấm dứt thì kể lại những cuộc thánh chiến và tội ác của Cộng Sản thì có còn ý nghiã gì? Trên phương vị của con người, những tin tức và dữ liệu này rất quan trọng đối với những người đã chịu đựng sự khủng bố của Cộng Sản. Rất nhiều người trong số nạn nhân của Cộng Sản vẫn còn sống sót; và họ muốn những chuyện này phải được kể lạị họ muốn thế gian này phải biết rằng họ đã phải chịu đựng những sự khủng bố tàn bạo và dã man của Cộng Sản. Họ biết rằng lịch sử cần phải nói thật và nói thẳng và nguyền rủa tội ác của Cộng Sản và sự khủng bố tàn bạo và dã man của Cộng Sản không còn có cơ hội lập lại ở bất cứ nơi nào trên thế gian này. Trên một phương vị khác, thế hệ của những “học giả” sinh sau chiến tranh Ý Thức Hệ Cộng Sản chỉ có một tầm mức kiến thức rất eo hẹp và nghèo nàn để khả dĩ có thể nhận chân được sự định tính chủ yếu của vai trò tôn giáo trong cuộc chiến Ý Thức Hệ. Không phải chỉ về sự đồng dạng trong nguồn gốc và mực độ của sự khủng bố của Cộng Sản, họ không thể nào hiểu rõ được là làm thế nào mà cơ chế Cộng Sản Vô Thần của Nga Sô đã làm bừng ngọn lửa đoàn kết đa đảng của Hoa Kỳ chống lại Cộng Sản Nga trong thời kỳ đầu của cuộc chiến Ý Thức Hệ. Những đảng viên dân chủ như Harry Truman và John F. Kennedy và và đảng viên Cộng Hoà như John Foster Dulles và Ronald Reagan đã công khai chỉ trích cái tai họa “Cộng Sản Vô Thần Nga Sô,” cũng như các vị lãnh tụ tôn giáo nổi tiếng như Francis Cardinal Spellman, Bishop Fulton Sheen, và Tiến Sĩ Fred Schwarz qua Chiến Dịch Thiên Chúa Giáo Chống Cộng của ông. 12 Nói trên phương diện tôn giáo, thành quả đưa đến sự sụp đổ của tập đoàn Cộng Sản Vô Thần là do sự liên kết bởi hai tôn giáo lớn là đạo Tin Lành và Đạo Công Giáo.
Ngày nay, rất ít người hiểu chân giá trị của những sự kiện này. Chúng ta không thể lãng quên một phần cực kỳ quan trọng này trong chiến tranh Ý Thức Hệ. Bi thảm thay, nhiều chứng tích tội ác Cộng Sản vẫn chưa được khai sáng cho công chúng và ngay cả các nhà học giả, và trí thức. Nói một cách chắc chắn là nhiều viện sĩ đã biết rõ về vấn đề khủng bố Tôn Giáo của Cộng Sản nhưng họ thường không quan tâm đến, và gạt bỏ ra ngoài với thái độ xuyên tạc sai lầm của những từ ngữ “Tự Do Tôn Giáo” và “Chống Cộng”, và họ nhận xét như là thô bạo và ngu dại. Ông Richard Pipes, Giảng Sư trường Đại Học Harvard về môn Emeritus of Russian History, viết rằng “Dưới chế độ Cộng Sản, sự khủng bố tôn giáo thường xảy ra. Và thực tế phũ phàng là các nhà trí thức và học giả không quan tâm đến.” 13
Đạo Tin Lành, Đạo Công Giáo, Đạo Do Thái, Đạo Hồi Giáo, Đạo Phật, Đạo Cao Đài, Đạo Hoà Hảo …vân…vân… Cộng Sản khủng bố tất cả không chừa một đạo nào. Và tín đồ của các tôn giáo đều mong ước rằng âm mưu các độc này của Cộng Sản sẽ có một ngày phải được đưa ra dưới ánh sáng công lý. Không một ai, hay rất ít các cơ quan chủ yếu đã nói lên câu chuyện của các nạn nhân. Rất nhiều nạn nhân cảm thấy đau xót, tất cả các nạn nhân đều thất vọng và tức giận về cái hệ thông cuồng tín và tàn bạo của Cộng Sản chưa bao giờ được hoàn toàn phơi bày ra. Sách vở ở các trường Trung Học tràn ngập với những bài học về các cuộc viễn chinh, nhưng họ im lặng về infinately sự khủng bố hung bạo hơn và vô tận của Cuộc Thánh Chiấn Của Cộng Sản. 14
Phần còn lại để chi các tổ chức như Tổ Chức Tưởng Niệm Các Nạn Nhân của Công Sản nói về chuyện này, để phơi bày sự thật của lịch sử, và tôn kính các Nạn Nhân của Cộng Sản.
1 Mikhail Gorbachev, Memoirs (NY: Doubleday, 1996), p. 328.
2 Mikhail Gorbachev, On My Country and the World, (NY: Columbia University Press, 2000), pp. 20-1.
3 The “opiate of the masses” remark is well-known. The source for the quote, “communism begins where atheism begins,” is Fulton J. Sheen, Communism and the Conscience of the West (Indianapolis and NY: Bobbs-Merrill, 1948). Sheen, who spoke and read several languages, translated the quote into English from an un-translated Marx work.
4 Lenin wrote this in a November 13 or 14, 1913 letter to Maxim Gorky. See: James Thrower, God’s Commissar: Marxism-Leninism as the Civil Religion of Soviet Society (Lewiston, NY: Edwin Mellen Press, 1992), p. 39.
5 Quoted in Thrower, God’s Commissar, p. 39. Another translation of this quote comes from Robert Conquest, in his “The Historical Failings of CNN,” in Arnold Beichman, ed., CNN’s Cold War Documentary (Stanford, CA: Hoover Institution Press, 2000), p. 57.
6 See: J. M. Bochenski, “Marxism-Leninism and Religion,” in B. R. Bociurkiw et al, eds., Religion and Atheism in the USSR and Eastern Europe (London: MacMillan, 1975), p. 11.
7 This item was published in a 2002 book by Yale University Press. See: Alexander N. Yakovlev, A Century of Violence in Soviet Russia (New Haven and London: Yale University Press, 2002), p. 157.
8 See: Daniel Peris, Storming the Heavens: The Soviet League of the Militant Godless (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1998).
9 See: Bertram D. Wolfe, A Life in Two Centuries (Stein and Day, 1981), pp. 403-4.
10 The repression was pursued in varying degrees among the Soviet bloc nations. Among them, Romania, Albania, East Germany, and Czechoslovakia were especially repressive.
11 Richard Wurmbrand, Tortured for Christ (Bartlesville, OK: Living Sacrifice Book Company, 1998), pp. 33-8.
12 See: Paul Kengor, God and Ronald Reagan: A Spiritual Life (NY: HarperCollins, 2004).
13 Richard Pipes speaking at Grove City College, Grove City, Pennsylvania, September 27, 2005.
14 Paul Kengor compared the treatment of the two in an exhaustive, year-long research project that examined history texts used in Wisconsin public schools, which were the same texts used in all states. See: Paul Kengor, “Searching for Bias: World History Texts in Wisconsin Public Schools,” Wisconsin Policy Research Institute, June 2002. A copy of the study is posted on the website of WPRI.
No comments:
Post a Comment