Xin Bấm PLAY để nghe âm Thanh
Việt Nam Vùng Địa Lý Chiến Lược!
Vân Anh
Bài 4a
Trở lại vấn đề tên “văn sĩ cởi truồng” Dương Thu Hương. Trong chiến tranh tên điếm văn nghệ Dương Thu Hương hưởng ứng rất nhiệt tình lời kêu gọi của bọn Việt Gian Cộng Sản để xâm lược miền Nam. Vì vậy nên y thị đã tình nguyện gia nhập đội quân “thanh niên xung phong” trong lúc mọi người vẫn trốn quân dịch. Thời đó Cộng Sản Bắc Việt lập ra trại B - Quay, tức là những người không chịu đi Nam để chết cho bọn chúng, thì bị bọn chúng đưa đi B. Trại này bắt giam rất nhiều người không chịu tình nguyện đi. Rất nhiều người bị bắt đi (miền Nam ) thì họ trốn vào Nam lấy thí dụ như: ca sĩ Đoàn Chính. Thời đó rất nhiều người không đi thì tên Dương Thu Hương lại tình nguyện. Nhưng sau này có lẽ lấy lòng người Việt hải ngoại để dễ bề hoạt động cho đảng, thì tên điếm văn nghệ này lại bịa chuyện nói láo, nói khống rằng: “tôi được kết nạp vào đảng, nhưng tôi từ chối không vào đảng và sau cùng mới chịu vào đảng”. Y thị tưởng nói như vậy là có thể lừa gạt được mọi người !.
Tên điếm văn nghệ Dương Thu Hương quên rằng: nguyên tắc của Cộng Sản là khi đã từ chối vào đảng, thì suốt đời không được vào đảng nữa và có thể bị đi tù khổ sai ngay lập tức. Vào giai đoạn của Dương Thu Hương khoảng năm 1969, thì không bao giờ và bất cứ cá nhân nào lại dám từ bỏ chuyện vào “đảng” cả. Vào đảng là cả một quyền lợi thì không bao giờ có chuyện đảng kết nạp vào đảng mà không vào, để rồi sau đó lại vào (đảng). Điều này cho thấy bản chất của tên điếm văn nghệ Dương Thu Hương là Nói Láo một cách trơ trẽn vô liêm sĩ cho đúng với bản chất lưu manh lật lộng của tập đoàn Việt Gian Cộng sản của y thị. Đồng thời tên điếm văn nghệ này muốn nói rằng: “đảng Việt Gian Cộng Sản chúng tôi chỉ tàn ác tí ti thôi, chứ không man rợ như nhiều người đã tưởng. Đảng cho vào (đảng) nhưng y thị có quyền từ chối mà đảng không làm gì y thị được”. Đây mới chứng tỏ cái bịp có chủ đích của tên điếm văn nghệ Dương Thu Hương.
Trước đây khi “viết sách” tên “văn sĩ cởi truồng Dương Thu Hương” có nhắc đến tên Vẹm Nguyễn Văn Linh và y thị cũng bịa chuyện nói rằng: y thị đã từng gặp Nguyễn Văn Linh và tên này đã từng chửi y thị là “con đĩ”. Nói đến đây chúng ta phải trở lại thời của Nguyễn Văn Linh cầm quyền để đọc giả có một cái nhìn rõ ràng ràng hơn. Trong giai đoạn này trong nội bộ công an đã xảy ra một cuộc đấu đá rất gay go. Một bên là phe Mai Chí Thọ cầm đầu. Phe bên kia của tên Vẹm Cao Đức Chiếm và một phe khác nữa do tên Vẹm Dương Thông cầm đầu. Tất cả chuyện chống nhau này không phải chúng chống nhau vì đường lối chính trị, mà chúng chống nhau để giành nhau ăn miếng thịt béo bở của miền Nam. (Xin xem tiếp về “văn sĩ cởi truồng Dương Thu Hương ở đoạn cuối bài.)
Khi nói về người Việt và người Tầu thì từ ngàn xưa lịch sử đã chứng minh tham vọng bành trướng, xâm lăng, thôn tính nước Việt của tất cả mọi triều đại phong kiến Trung Hoa. Từ trước đời nhà Đường cho đến đời nhà Thanh và đến nay là các thế hệ của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào vẫn không hề thay đổi. Sau Thế Chiến Thứ II, Trung Hoa và một nửa nước Việt (miền Bắc Việt Nam) đã trở thành những nước đầu tiên ở Châu Á đi theo lý thuyết Cộng Sản. Nhưng không phải vì cùng đi chung con đường Cộng Sản và cùng là “đồng chí” mà tham vọng thôn tính của Bắc Kinh không còn nữa. Đây là một thực tế hiển nhiên mà có lẽ chỉ có những tên cầm quyền Việt Gian Cộng Sản trước đây và hiện nay đã tự che tai bịt mắt mới dám nói rằng: Trung Cộng vừa là “đồng chí”, vừa là người “mẹ” có đầy thiện chí muốn duy trì mối quan hệ gọi là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” Cách đây 30 năm (1979), tình “hữu nghị” này đã được thể hiện bằng cuộc chiến tranh đẫm máu tại biên giới Việt - Trung. Một cuộc chiến tranh giữa “hai anh em Cộng Sản môi hở răng lạnh” khi “đồng chí” Đặng Tiểu Bình xua 32 vạn quân (320,000) dạy cho các “đồng chí” Cộng Sản Hà Nội một bài học vào ngày 17/02/1979. Tình “đồng chí Cộng Sản” thể hiện tình “láng giềng hữu nghị” ... “hướng tới tương lai” bằng đại bác 130 ly, 122 ly, bằng đại liên 50, 60, bằng AK 47, B40, B41, bằng hỏa tiễn, bằng xe tăng và nhiều loại vũ khí hiện đại khác. Đến nay thì toàn dân Việt trong và ngoài nước đã có được bài học kinh nghiệm hầu có thái độ dứt khoát với tập đoàn Việt Gian Cộng Sản bán nước. Đây là một điều vô cùng quan trọng mà các thế hệ thanh niên Việt Nam từ bây giờ và mãi đến tương lai sau phải nhớ rằng: “tập đoàn Việt Gian Cộng Sản Hà Nội chúng chỉ là một đám Việt Gian, tay sai bán nước cho ngoại bang, chúng chẳng bao giờ nghĩ đến đất nước hay dân tộc Việt Nam” và không có một điều tàn ác, tàn bạo nào mà chúng không dám làm.
Xét về diện tích đất đai Việt Nam và Trung Hoa hiện nay, thì Trung Cộng là một nước khổng lồ đang trở thành mối lo ngại cho toàn thế giới nói chung và đất nước Việt Nam chúng ta nói riêng. Về phương diện địa lý, địa hình, phong thuỷ nước Tầu … và nhiều thứ khác nữa, cái rũi của nước Tầu chính là cái may cho dân tộc Việt Nam và toàn thế giới. Ngày xưa nếu Mao Trạch Đông thành công đưa nước Tầu đến hùng cường vĩ đại và không bị nạn nhân mãn sớm trong 10-15 năm đầu, thì có thể nước Tầu có thể làm bá chủ Á Châu và cả thế giới trong thập niên 80 khi đế quốc Liên Xô tan rã. Nhờ hùng mạnh có thể Tầu không cần theo Mỹ và đứng ngoài để cho hai con cọp Mỹ và Liên Xô xâu xé với nhau bằng võ khí nguyên tử thì cả nhân loại và luôn cả nước Tầu có thể bị tiêu diệt và như vậy là tận thế. Mao không hiểu chiến tranh nguyên tử vì Mao không hiểu khoa học, Mao nghĩ rằng dù chiến tranh nguyên tử có xảy ra thì nhân dân Trung Hoa vẫn còn sống sót nhiều vì dân Tầu quá đông đảo, trong khi nhân loại có thể chết hết.
Mọi việc xảy ra chỉ vì các triều đại cầm quyền của Trung Hoa đã quá nhiều tham vọng so với tầm hiểu biết của họ. Họ nghĩ rằng họ là những “ông trời con” thật. Họ nghĩ rằng nước Tầu với một vùng đất quá rộng (do xâm lăng chiếm được từ các nước chung quanh), với một thế đất địa lý to lớn như vậy đã làm cho Trung Hoa đứng vững trong nhiều ngàn năm qua, thì nay không có gì có thể lay chuyển được tham vọng của họ.
Nhưng ngày nay mọi việc có lẽ đã biến đổi, địa lý của đế quốc Trung Hoa đã bị triệt tiêu. Nếu khoảng năm 866 Cao Biền đã trấn yểm La Thành (Thăng Long hay là Hà Nội ngày nay), thì ngược lại vào đời nhà Minh ông Nguyễn Văn An cũng đã trấn yểm thành Bắc Kinh hay là Thiên An Môn. Ở đây tác giả phải nói sơ về La Thành hay là thành Đại La và thành Thiên An Môn để mọi người có thể tham khảo để thêm.
Bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức (1490)
Theo sử Việt thì La Thành được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 7 có tên đầu tiên là Tống Bình. Vào năm thứ 2 niên hiệu Trường Khánh tức năm Nhâm Dần - 822, Vua nhà Đường tức Đường Mục Tông dùng Nguyên Hỷ qua đô hộ đất Việt. Thái thú Nguyên Hỷ thấy trước cửa thành Tống Bình có dòng nước chảy ngược nên sợ rằng dân trong thành có ý đồ nổi dậy lật đổ đánh đuổi nhà Đường, (nhà Đường tổ tiên của Lý Khánh Vân tức sư Vạn Hạnh đời Lý Thái Tổ) liền sai thầy phong thủy gieo quẻ để biết hung cát. Thầy phong thủy tâu rằng: “sức ông cũng như âm đức của ông không đủ để đắp thành lớn nơi đây, phải 50 năm nửa thì sẽ có một người họ Cao đến đây mới có thể xây thành lớn được”. Mãi đến đời vua Đường Y Tôn (841- 873) lúc đó Cao Biền đang làm Tiết Độ Sứ mới được cử sang đất Việt. Cao Biền quả là một tên đa tài, đa diện. Cao Biền vừa là tướng có “tài” trấn áp dân Việt, vừa là một nhà địa lý, phong thủy. Thành Tống Bình được họ Cao sửa chửa lại và trấn yểm phong thủy, địa lý cho hợp, vào các năm 866, 867, 868 và đổi tên lại là thành Đại La (nghĩa là cái lưới lớn hay là thiên la địa võng để “nhốt cá” Việt vào trong cái “La Thành” (lưới lớn) này. Đời sau sự tích cá vượt Vũ Môn hóa Rồng bay lên - Thăng Long - cũng là do chuyện tích này. Nhiều người trước đây lầm tưởng là chuyện tích của người Tầu). Ở đây cũng xin nói thêm là không riêng gì khu vực “La Thành” mà Cao Biền còn trấn yểm nhiều nơi khác nửa. Nhưng trước đó đã có những Thiền sư tài giỏi như Sư Định Không (729 - 808), Khuông Việt, Không Lộ, Pháp Thuận và nhiều vị chân sư nửa (không tiện nêu tên ra đây) đã biết trước sẽ có một người họ Cao sang đất ta dùng môn phong thủy để trấn yểm các linh mạch, nên các Sư thường gặp nhau trên núi cao (không tiện nêu tên núi ra đây) và dùng thuật Huyền Môn để trấn áp (Cao Biền sau này) hay dời các Linh Địa đi nơi khác. Vì thế sau này các sư như: Sư La Chân Nhân (852- 936) Sư Vạn Hạnh (tức Lý Khánh Vân, thời đó không có người sư nào tên “khánh vân” có dịp sẽ nói riêng về Lý Khánh Vân và Lý Khánh Đản), Sư Ngô Chân Lưu ..v.v.. mới có thể hóa giải các huyệt đạo chấn yểm của Cao Biền một cách dễ dàng.
Hơn 500 năm sau đất Việt lại sinh ra “cậu bé” Nguyễn An tức Nguyễn Văn An đã dùng thuật “Huyền Môn” trấn áp thành Bắc Kinh cho đến ngày nay. Ông Nguyễn Văn An sinh năm 1387 và mất khoảng năm 1470. Cha ông Nguyễn Văn An là một người thầy giỏi không riêng gì môn địa lý mà ông giỏi cả nhiều môn học huyền bí khác. Nên vào năm 1407 sau khi chiếm lĩnh toàn cõi Việt Nam bọn Mộc Thạnh, Trương Phụ theo lệnh của vua nhà Minh rút quân về Tầu mang theo đàn bà, con gái, các nho sĩ giỏi cách sách sử quý của các đời Trần, đời Lý, đồ thư, các truyện ký và nhiều sách quý khác đem về Kim Lăng (Nam Kinh ngày nay).
Người Tầu từ xưa cho đến nay bất cứ triều đại nào cũng đều lưu tâm đến việc đồng hóa dân Việt để chúng ta quên đi nguồn gốc, cho nên họ thẳng tay phá bỏ văn hóa dân Việt, nhưng họ lại nhập cảng cách loại sách như: Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tinh Lý, chúng cũng không quên lập ra Tăng Đạo Ty để phổ biến các “Đạo Phật” (chúng ta nên chú ý một điều là: đạo Phật của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ngày nay là một lối đạo Phật theo kiểu của người Tầu đời Đường xuất xứ từ Lý Khánh Vân nói trên. Chu Nguyên Chương đời nhà Minh cũng từng có thời lẩn trốn giả sư trong chùa, vừa là thành viên của Minh Giáo nên mới thành lập triều đại nhà Minh), Đạo Lão và Nho Giáo cũng theo lối Tầu. Các đạo Nho, đạo Thích, đạo Phật được khuyến khích mạnh mẽ hơn bao giờ hết và dụng ý của nhà Minh nói riêng và người Bắc phương nói chung là đưa dân Việt vào tôn giáo để người Việt Nam mất hết tính quật cường. Ông Nguyễn Văn An sinh ra đời trong thời buổi đất nước nhiễu nhương loạn lạc, được người cha hết lòng dạy dỗ cho nên năm 14 tuổi ông Nguyễn Văn An đã lầu thông kinh sách, ông thuộc làu về môn địa lý phong thủy và đặc biệt là môn “Huyền Môn” (tưởng cũng nên nói thêm là người Trung Hoa từ trước đến nay chưa bao giờ biết về môn học “huyền môn” này).
Ngay cả người Việt Nam chúng ta đây cũng chỉ có một số người trong cùng một môn phái và được Chân Truyền mới có khả năng học và nhìn được các “Linh Ảnh” (“Linh Ảnh” nghĩa là dùng một phương pháp khoa học huyền bí cổ truyền để nhìn thấy được hình ảnh của quá khứ và tương lai. Khả năng của những người này họ nhìn xuyên được không gian và thời gian như chúng ta đang nhìn thấy đồ vật trong nhà chúng ta vậy. Ví dụ mỗi đêm khi nhìn lên bầu trời thì chúng ta thấy ánh sáng phát ra từ các vì sao, nhưng có thể chúng ta đã nhìn thấy ánh sáng quá khứ của các vì sao này. Vì có những vì sao ở xa chúng ta đến vài triệu năm ánh sáng. Đại khái như vậy. Hơn nửa người viết không muốn giải thích các môn học Cổ Truyền ra đây. Xin cáo lỗi cùng đọc giả). Có thể đây là một “bí kiếp” để giữ nước vậy).
Cũng có sách chép rằng: “Ông Nguyễn Văn An có khả năng đặc biệt nhìn được Linh Ảnh và điều này đã làm cho ông có thể xử dụng nhãn quan để nhìn trong lãnh vực siêu hình, nhất là về địa lý phong thủy”. Có lẽ thời đó địa lý phong thủy của vùng đất Việt phát triển mạnh nên hơn 100 năm sau ông Nguyễn Văn An, nước Việt Nam lại xuất hiện Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhiều nhân tài khác. Cho nên môn học huyền bí cổ truyền này của người Việt Nam đã được truyền cho những người có “duyên nghiệp” với đất nước từ đời này sang đời khác và cũng sẽ còn lưu truyền mãi mãi về sau nửa.
Khi đưa về tới Nam Kinh các quan người Tầu đã mở những lớp khác nhau để khảo sát trình độ các thanh thiếu niên Việt thời đó để xem xét trình độ thông minh của họ. Người Tầu vô cùng ngạc nhiên khi hỏi “cậu bé” Nguyễn Văn An đến đâu thì ông đều đối đáp trôi chảy đến đó. Họ càng ngạc nhiên hơn khi thấy “cậu bé” Nguyễn Văn An bút đàm ứng đối vô cùng uyên bác đã làm cho các quan người Tầu khâm phục. Ngay lập tức “cậu bé” Nguyễn Văn An được trình lên vua Minh, chỉ trong mấy tuần ông Nguyễn Văn An đã được đưa vào trình diện vua Minh năm đó ông Nguyễn Văn An đã tròn 14 tuổi. Vua Minh hỏi đến đâu ông đối đáp đến đó và đặc biệt là môn địa lý phong thủy. Trong một cuộc tuần du cùng vua Minh, Minh Đế đã được “cậu bé” Nguyễn Văn An giải thích nhiều điều về sự kỳ diệu không ngờ của long mạch, địa lý nơi những vùng đất mà ông đã đi qua và dường như ông đã thông suốt hết quá khứ tương lai (cũng nhờ hiểu được môn học Huyền Môn này), cũng như những diễn biến thịnh suy của long mạch từng vùng đất.
Khi đến Yên Kinh tức Bắc Kinh ngày nay ông đã nhìn thấy sự hoang tàn của các thành quách qua các triều đại Mông Cổ và trong cảnh hoang tàn này ông đã nhìn thấy một kiểu đất quý. Đó là kiểu đất “Kim Điền Tụ Long”, nhưng cũng trong kiểu đất quý này “cậu bé” Nguyễn Văn An cũng đã nhìn thấy được cái thế chết hay là cái cách phá tan các long mạch của các vùng đất trong lục địa Trung Hoa. Vì biết như vậy nên ông Nguyễn Văn An chỉ trình bày cho vua Minh kiểu đất với sự “sinh tồn” của đế nghiệp nhà Minh (lẽ dĩ nhiên là ông chẳng bao giờ trình bày làm cách nào để phá tan long mạch của Trung Hoa sau này). Bằng “linh ảnh” ông Nguyễn Văn An cũng đã nhìn thấy trước các hoàng thành, cung cấm hiện ra, ông “khẩn thiết” vua Minh phải xây dựng một kinh thành cho hoàng tộc nhà Minh, nếu Minh Đế muốn sự nghiệp nhà Minh “tồn tại”. Vua Minh đã trầm ngâm suy nghĩ và hỏi ông rằng:
“làm cách nào để có kế hoạch xây dựng một cơ sở thành quách vĩ đại như vậy và tốn kém thì là bao nhiêu!”.
Hỏi đến đâu ông trả lời đến đó không chút lưỡng lự. Khi vua Minh hỏi lại rằng:
“liệu công cuộc xây dựng có bị thất bại hay không?”.
Thì ông Nguyễn Văn An đã trả lời rằng:
“khi tôi đã thấy các thành quách cung điện hiện ra trong trí (linh ảnh) thì tôi biết công cuộc xây dựng sẽ không thất bại”.
Chúng ta nên nhớ thời đó chưa có phương pháp vẽ các họa đồ kiến trúc như bây giờ, cũng chưa có thước tất đo đạc tinh vi như bây giờ. Hơn nửa “cậu bé” 14 tuổi Nguyễn Văn An cũng không phải là một kiến trúc sư, (các nhà nghiên cứu để viết sử nên nhớ ông Nguyễn Văn An không phải là một Kiến Trúc Sư, vì ở Việt Nam ông chỉ là một cậu bé), các vật liệu xây cất cũng như các thợ khéo không có. Các vua quan nhà Minh cũng không ai có một ý niệm gì về việc xây cất cả một cung điện to lớn như Cấm Tử Thành bao giờ, cũng như không có ý niệm gì về kế hoạch xây dựng, kiến trúc, vẽ kiểu hay hoạch định đồ án để xây dựng, ngân sách chi tiêu cho một cung điện to lớn như vậy ra sao?!. Những danh từ như: công trình, họa độ đồ án, vẽ kiểu mẫu, ước tính đều hoàn toàn xa lạ với người Minh trong thời xa xưa đó. Ngoài ra ai sẽ đứng ra đảm trách để điều động hàng triệu nhân công, chỉ huy hàng vạn thợ khéo tay để làm cho hợp với khuôn mẫu khi ráp các vật liệu vào với nhau. Hàng vạn thợ khéo tay lành nghề, hàng triệu chi tiết lớn nhỏ trong công việc xây Cấm Tử Thành kéo dài qua 17 năm ròng rã.
Trong hơn năm ngàn năm (5,000) qua Trung Hoa nói riêng và thế giới nói chung, chúng ta chưa thấy một công trình kiến trúc nào quy mô, vĩ đại, cầu kỳ và xây dựng chính xác như thành Thiên An Môn ở Bắc Kinh. Vì vậy công trình xây dựng thành Bắc Kinh quả là tuyệt hảo. Nếu nói Vạn Lý Trường Thành tuy vĩ đại nhưng chỉ là một “công trình” giản dị về kiến trúc được khởi đầu khoảng năm 218 trước Tây lịch. Trước thời nhà Minh, Vạn Lý Trường Thành chỉ là một bức tường thành dài được đấp bằng đất và gạch nung, chứ không phải là một công trình kiến trúc tinh vi, mỹ thuật như Cấm Tử Thành. Vạn Lý Trường Thành được các triều đại sau nhà Tần xây đấp thêm trong nhiều thế kỷ mới tạm xong và chia ra làm nhiều đoạn chạy dài từ Sơn Hải Quan tỉnh Sơn Đông tới Gia Ngọc Quan tỉnh Cam Túc, chạy dài theo sa mạc Gobi tới xa mạc Takhli Makan của xứ Tân Cương.
Sau khi nghe trình bày vua Minh tức hoàng đế Vĩnh Lạc quyết định cho khởi công xây dựng Thiên An Môn vì sự tồn tại hay đóng đô nơi vùng đất tốt để triều đại được trường tồn lâu dài là sự quan tâm hàng đầu của bất cứ vị vua nào của Trung Hoa. Khi khởi công xây cất năm đó ông Nguyễn Văn An mới 17 tuổi (cùng thời bị bắt về Tầu còn có ông Vương Cẩn tức Trần Vũ cũng là một người tài giỏi thông minh xuất chúng, nhưng ông Trần Vũ thì không có liên quan gì đến công trình kiến trúc xây Cấm Tử Thành này - có dịp sẽ nói về ông Vương Cẩn tức Trần Vũ qua một bài viết khác). Chính vì hận thù nhà Minh nên ông Nguyễn Văn An đã “trấn yểm” để thay đổi địa lý cũng như phong thủy của Cấm Tử Thành để gặp đại hạn hỏa hoạn trong giai đoạn đó và kéo dài sự tranh chấp đổ vỡ qua nhiều triều đại và đến tận ngày hôm nay. Theo thường lệ thì khi địa lý phong thủy bị phá thì có nhiều chuyện bất thường xảy ra, và “cậu bé” Nguyễn Văn An đương nhiên phải biết trước điểm này. Do đó cung điện Cấm Tử Thành đã bị “sét đánh” và phát hỏa cháy tiêu sau khi xây xong. Vua Vĩnh Lạc tức Minh Thành Tổ đã nhìn công trình vĩ đại tốn công xây cất trong gần 20 năm đã theo ngọn lửa bay đi. Các vua chúa người Tầu đều không đủ phúc đức để hưởng thụ cung điện xa hoa tráng lệ này, phải đến mấy chục năm sau vua Anh Tôn mới ra lệnh cho ông Nguyễn Văn An khởi công xây cất lại. Các triều đại Mãn Thanh sau này và họa Cộng sản Mao Trạch Đông cũng đã tàn phá kinh thành Thiên An Môn.
Ngày nay Cấm Tử Thành chỉ còn một mặt bên ngoài còn tương đối nguyên vẹn, mà mọi người đều nhìn thấy đó là quảng trường Thiên An Môn (có treo ảnh Mao Trạch Đông). Còn lại tất cả công trình xây dựng hầu như không được tu bổ nên đã bị phá hủy theo thời gian. Như vậy số trời đã định và hiện nay giới cầm quyền Bắc Kinh thì non kém không đủ phúc đức và kém hiểu biết về thiên văn, địa lý, phong thủy nên đã cho đào xới tìm nhiên liệu hay quặng mỏ làm “kinh tế”, nên đã tàn phá thêm các long mạch của lục địa Trung Hoa. Không có tên cầm quyền nào ở Trung Nam Hải hiện nay có được uy mãnh như Mao Trạch Đông (trong một bài khác sẽ nói về Mao Trạch Đông và Cộng sản Tầu đã tàn sát người Trung Hoa như thế nào), hơn nửa với thời vận và số mạng thay đổi, nước Tầu đã hết phúc đức và nước Trung Hoa vận số đã gần lúc cáo chung chỉ còn đợi ngày tan rã.
Giới cầm quyền Trung Cộng hiện nay không có người giỏi, biết nhìn xa thấy rộng nên Trung Cộng khi hùng cường đã không nghĩ đến củng cố nội bộ để kiến thiết nước Tầu, mà chỉ nghĩ đến chuyện xâm lăng bành trướng tiêu diệt các nước khác, diệt chủng các dân tộc khác như vấn đề của Tây Tạng và xâm lăng Việt Nam như thế giới đã nhìn thấy. Các tên cầm quyền Trung Cộng từ năm 1995 cho đến nay không đủ tầm vóc để suy nghĩ rộng rãi và sâu xa. Họ không nghĩ là nhân loại đang tiến vào thế kỷ 21, thế giới là ngôi nhà chung cho nhân loại, con người không còn chấp nhận sự suy nghĩ lỗi thời của tham vọng bành trướng xâm lăng và đô hộ bóc lột các dân tộc khác. Từ năm 1974 Trung Cộng đã gởi sinh viên du học tại nhiều nước khác, trong đó có Hoa Kỳ. Riêng con số tại Hoa Kỳ, sinh viên người Tầu hàng năm lên đến 40,000 người. Dù người Tầu học hỏi và tài giỏi trong nhiều lãnh vực như khoa học, kỹ thuật, kinh doanh, buôn bán. Nhưng giới cầm quyền Trung Cộng là những người cầm vận mệnh quốc gia cần phải có tướng tinh mạnh vào cở tầm vóc Mao Trạch Đông, và phải có đủ tài năng để kinh bang tế thế, mưu cầu hạnh phúc no đủ cho toàn dân. Những người cầm quyền như vậy thì trong mấy ngàn năm lịch sử của Trung Hoa chỉ hiếm hoi có vài người, trải qua nhiều thế kỷ như: nhà vua Minh biết xử dụng người hiền tài không phải là người Tầu để kiến thiết nước Tầu, đó là cần thiết không thể thiếu để triều đại không xụp đổ.
Vào cuối năm 1995, giới cầm quyền mới của của Bắc Kinh như: Hồ Cẩm Đào, Giang Trạch Dân, Trì Hạo Điền, Chu Dung Cơ, Lý Bằng ..v.v.. đang thách đố Hoa Kỳ trong ngôi vị bá chủ Á Châu và toàn thế giới. Hiện nay Trung Cộng có thể tung quân bốn (4) mặt để tấn công Á Châu cùng một lúc là Việt Nam , Nam Triều Tiên, Đông Bắc và Đông Nam Á Châu. Bắc Kinh tin rằng có thể nắm chắc toàn thắng trong tay. Nhưng sự đời nhiều bất ngờ, hơn nửa chiến tranh thì điều thắng hay bại thì ít ai có thể ngờ được. Với khối tiền bạc và nhân sự quả là đông đảo, Bắc Kinh cũng như nhiều nhà quân sự Hoa Lục không ngờ là trận thế nào dù khó khăn bí hiểm cách mấy, cũng có thể có những kế hóa giải hay là thế chuyển bại thành thắng và để tấn công quân địch chuyển thành cái thế “đại bại” của địch. Nếu nói rằng xâm lăng Á Châu và Âu châu thì có vẻ dễ dàng. Nhưng từ thượng cổ đến nay chỉ có Thành Cát Tư Hãn từ năm 1206-1368 thành công phần nào khi xâm lăng Âu Châu, Á Châu, Trung Đông. Những người khác từ Alexandra đến Napoleon, Stalin, Hitler đều đã thất bại. Ông Mao tuy là sát tinh của người dân Hoa Lục nhưng hình như ông không có tham vọng bành trướng và xâm lăng thế giới dưới bất cứ hình thức nào.
Ngày nay hay là từ sau thập niên 90 trở đi giới cầm quyền Bắc Kinh có toàn là những thành phần yếu kém thua tài với tư cách tướng lãnh bất xứng, nhưng lại nhiều tham vọng bành trướng bá quyền hão huyền của họ. Họ Hồ (Hồ Cẩm Đào) cũng như họ Giang (Giang Trạch Dân), họ Trì (Trì Hạo Điền) đã không có tài đảm lược, hùng tâm, thủ đoạn cơ mưu quyền biến cỡ Mao Trạch Đông. Nếu hiểu được như vậy thì hiện nay giới cầm quyền Bắc Kinh làm sao giữ cho được nguyên trạng Trung Hoa cũng đã khó khăn. Nhưng không! họ muốn làm bá chủ Á Châu và Úc Châu, bọn bá quyền rõ ràng chỉ có suy nghĩ ảo tưởng, hão huyền như con ểnh ương muốn to bằng con bò. Sự đời mưu thâm thì họa cũng thâm, với tham vọng bá quyền họ tung tiền của và nhân sự ra ngoài để đánh phá thế giới, thì sẽ bị dội ngược thì đế quốc Trung Hoa dễ dàng tan rã nhanh chóng.
Từ nhiều trăm năm qua cũng vì kiểu đất xây “Cấm Tử thành” (chỉ riêng từ “Cấm Tử Thành” cũng gợi cho chúng ta thấy cảnh chết chóc, đổ nát) này, mà Trung Hoa có biết bao nhiêu thay đổi loạn lạc, với các lãnh chúa quân phiệt cùng cứ các nơi nhưng đế quốc Trung Hoa vẫn chưa xụp đổ như các đế quốc khác: La Mã, Mông Cổ, Cộng Sản Nga. Nhưng ngày nay đã gần sáu (6) thế kỷ trôi qua đất “kim điền tụ long” đã đến lúc suy tàn. Sự suy tàn này sẽ đưa đến phân hóa tan rã của đế quốc Trung Hoa. Sự “đoàn kết” của giới cầm quyền Trung Cộng sẽ bị “họa tiêu tường” làm rạn nứt trầm trọng các tỉnh bang chung quanh, hoặc từ trong nước Trung Hoa các tỉnh bang sẽ nổi dậy hùng cứ mỗi người một phương. Thêm vào đó sẽ có những thiên tai bất ngờ, những đại nạn như là: “úng thuỷ”, vỡ đê, vỡ đập, (đập Tam Khẩu hay những đập lớn khác tự nhiên sụp đổ), hay hạn hán, bão cát sa mạc kéo về lấp thành Bắc Kinh, lấp ruộng vườn như chưa từng có trong lịch sử Trung Hoa. Âu đó cũng là cái lẽ thịnh suy của trời đất. Dù lâu hay mau, địa lý phong thủy dù có vượng nhưng cũng đến lúc phải tàn tạ, kiểu đất “kim điền tụ long” đã hết số, các long mạch của thành Bắc Kinh đã bị dời đi nơi khác.
Long mạch có thể ví như là linh hồn của đất: loài người nếu biết tự tu thân thì mỗi cá nhân cũng có thể thành Thánh, thành Tiên. Đức Lạc Long Quân là Rồng và Mẹ Âu Cơ là Tiên (Long-Phụng hay là Phượng Hoàng là văn hóa “sáng tạo” của người Tầu. Vì họ đã đánh cắp biểu tượng Rồng - Tiên của Bách Việt. Nhưng vì ý đồ gian tà và Bắc phương không hiểu hết ý nghĩa sâu thẳm của Rồng - Tiên nên đã thay hình ảnh Tiên Âu Cơ bằng Phụng hay là Phượng Hoàng, nên Bắc Phương đã áp dụng Long - Phụng một cách nghịch lý âm dương. Vì Long là Dương, mà Phụng (Phượng Hoàng) cũng là Dương. Dương với Dương không có âm giao thoa. Tóm lại sự tàn ác chỉ chuyên đi diệt chủng các sắc dân khác của Bắc phương đã phạm vào trời đất trong mấy ngàn năm qua, nay đến lúc phải suy tàn là điều hẳn nhiên.
Tiện đây cũng xin nói thêm rằng: (“khi có con em hay người trong gia đình lập gia thất thì chúng ta không nên đi đến các nhà in hay các nhà hàng của người Tầu để in thiệp cưới và thết đãi tiệc tùng. Vì các biểu tượng cho đôi lứa “hòa hợp” của người Tầu thì chỉ có Long-Phụng = Dương + Dương. Theo dịch lý thì đây là một điền gở xui xẻo cho con cháu sau này. Điều này đã xảy ra từ trong nước ra đến hải ngoại mà ít có người Việt Nam nào biết hay để ý nói ra”. Long-Phụng là 2 giống Đực nên không thể lấy nhau và nếu có “lấy nhau” thì cũng sẽ bị tuyệt chủng, vì 2 giống Đực hoặc 2 giống Cái “lấy nhau” thì không thể sinh ra cái gì cả).
Từ ngàn xưa người Bách Việt hay dùng biểu tượng Rồng - Tiên để tưởng nhớ đến hai vị đã sinh ra giòng giống Bách Việt. Họ dùng biểu tượng để thay âm dương hòa hợp. Nhưng ngày nay không còn mấy người hiểu được ý nghĩa của Rồng - Tiên. Nhờ địa lý phong thủy mà dân Bách Việt được trường tồn và có thể đánh bại quân xâm lăng phương Bắc từ hơn hai ngàn (2,000) năm qua. Trên một phương diện nào đó về địa lý phong thủy, thì vận mệnh nước Việt đã gắn liền với vận mệnh của thế giới. Có thể Việt Nam là cái nôi của nhân loại hay là đầu mối long mạch toàn thế giới, do đó người ta gọi Việt Nam là linh địa cũng không phải là quá đáng. Đất Việt Nam vô cùng đẹp đẽ, ta có thể nhớ câu nói mà từ ngàn xưa tổ tiên ta nói: “Việt Nam là giải đất non sông gấm vóc, tiền rừng bạc bể”. Vấn đề phong thủy của Việt Nam lạ lùng ở điểm là không theo địa thế, địa lý long mạch sẳn có. Mà vào thời Vua Hùng Vương thứ 5, Ngài đã dùng một phương pháp đặc biệt để tạo cho hình thể Việt Nam trở thành hình Long, rồi từ đó mới sanh ra đất (địa) “ngũ sắc kỳ long”. Con rồng ngũ sắc được hình thành vào khoảng bốn ngàn (4,000) năm sau, thì kiểu đất lại biến chuyển thành “bạch long hiển linh thiên quang”. Ngũ sắc hay năm màu sắc đã tụ lại thành màu trắng tức là “Bạch Long”. Khi con Rồng trưởng thành thì phát ra ánh sáng màu vàng chói lọi. Con Rồng này phát ra kim quang đất nước Việt bắt đầu kết phát, thì tất cả những cái họa, kể cả họa Cộng Sản hiện nay cũng tiêu tùng. Các thứ ma quỷ Cộng Sản phải trở về địa ngục hay hỏa ngục.
Khoảng thế kỷ thứ 7, khi Cao Biền vào đất Việt, y biết đất Việt đã sinh ra nhiều nhân tài có thể khuynh đảo Trung Hoa. Sau đó, sang thế kỷ 10 thì Ngô Quyền (939-944) diệt quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng và dành lại độc lập chủ quyền. Như vậy hơn 1,000 năm trước địa lý phong thủy đã kết phát nên mới nảy sinh ra nhân tài giúp cho nước Việt thoát nạn đô hộ diệt chủng của người Tầu phương Bắc. Vậy sau khi tiêu diệt họa Việt Gian Cộng Sản trong giai đoạn từ năm 2009 trở đi thì Việt Nam sẽ có nhiều nhân tài. Việt Nam có thể mở đầu kỷ nguyên trong tinh thần mới cho toàn thể nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba và thứ tư. Nhân loại, vào đầu thế kỷ 21 hiện nay họ đã chán ngấy cái văn minh vật chất, kim tiền, dầu lửa với đủ thứ ô nhiễm … và sự tàn phá môi sinh (nhiều giới chức trong chính quyền Hoa Kỳ cũng như trên thế giới đang cổ động về môi sinh làm sạch môi trường, thay thế năng lượng dầu lửa bằng một loại năng lượng sạch. Bài trước Vân Anh đã có nói đến những phát minh về năng lượng và hiện nay tác giả cũng đã tìm ra thêm hai (2) cách làm ra năng lượng “sạch” nửa. Chúng ta phải hiểu rằng nếu tầng khí quyển bị ô nhiễm và bị xé rách, thì không khí chúng ta đang thở sẽ bị hút ra ngoài vũ trụ và 6 tỷ người cũng như mọi sinh vật trên trái đất có thể chết hết trong 1 giờ. Đây là điều có thật có thể xảy ra nếu chúng ta cứ tiếp tục là ô nhiễm môi sinh). Như vậy ta có thể nói: Việt Nam vào đầu thế kỷ 21 cho tới tương lai sẽ mở đầu xây dựng một nền văn minh sáng chói, hay là nền văn minh địa đàng. Nền văn minh này có thể kéo dài hàng nhiều trăm năm. Tất cả các linh hồn trước đây đã chịu nhiều thiệt thòi bất công, họ phải chết oan uổng ... sẽ được đền bù để (tái) sinh trong một kiếp mới với ân độ đắc quả, hình hài trọn vẹn hơn là sự công phu tu hành.
Một điều đáng ghi nhận là cuối thế kỷ 20, nhiều người ngoại quốc thèm muốn đất Việt Nam , cá nhân họ muốn vào sinh sống tại Việt Nam , thương gia cũng muốn vào Việt Nam “làm ăn, buôn bán”. Các khách du lịch thì lưu luyến không muốn rời và chỉ mong muốn trở lại Việt Nam . Nhiều nước muốn nhòm ngó Việt Nam với ý đồ thôn tính. Trước đây, và đến bây giờ người Pháp vẫn còn tiếc rẻ thuộc địa Đông Dương. Chúng ta hy vọng nhờ điểm phong thủy Việt Nam sẽ phồn thịnh trường tồn trong tự do. Kiểu đất “ngũ sắc kỳ long” đã biến chuyển thành “bạch long hiển linh thiên quang” có thể gọi là vĩnh viễn. Kiểu đất này đã mất thời gian dài hơn 4000 năm ngày nay mới được hình thành do vua Hùng Vương thứ Năm xây dựng. Như vậy sự trường tồn sẽ kéo dài hàng ngàn năm. Chỉ trong thiên niên kỷ thứ III nước Việt trở thành đất thần tiên và sẽ thịnh vượng trong một thời gian lâu dài. Cả thế giới sau này có thể trở thành cỏi địa đàng.
Có lẽ vì Việt Nam là đất linh địa mà Hoa Kỳ đã lưu tâm đến Việt Nam khá lâu trong hơn nửa (1/2) thế kỷ, từ khoảng năm 1950 cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Hoa Kỳ đã thành công trong việc ngăn chận làn sóng đỏ hay là thế bành trướng của đế quốc Cộng Sản Nga - Tầu tại Việt Nam . Chiến tranh Thế Chiến III đã không xảy ra và đế quốc Liên Xô phải thua cuộc và tan rã năm 1991. Đại Chiến Thế Giới tiêu diệt nhân loại không thể xảy ra, nhưng dân tộc Việt Nam đã chịu nhiều chết chóc đau thương, sự trường tồn của dân tộc Việt Nam quả là mạnh mẻ, trãi qua bao nhiêu thế kỷ với nạn đô hộ, chiến tranh với đại họa ghê gớm nhất hiện nay là họa Việt Gian Cộng Sản. Nhưng vì sức mạnh của long mạch địa lý đã giúp cho dân tộc Việt đủ sức chịu đựng các đại họa nói trên. Đồng thời đủ sức đánh đuổi đoàn quân Hán xâm lăng tàn bạo nhất và bọn nội thù Việt Gian Cộng Sản ngày nay. Hơn nửa thế kỷ qua, dân tộc phải đối phó với kẻ nội thù, ngoại xâm kinh tởm nhất trong lịch sử Việt, cầm đầu bọn Việt Gian Cộng Sản và tên đại tặc gian ác nhất là tên Việt Gian Hồ Chí Minh và đồng bọn. Những tên gian tặc cờ đỏ này không bao giờ chúng tự coi mình là người Việt. Ngày nay chúng ta có thể nói chắc rằng: Với địa lý phong thủy tốt đẹp của nước Việt sẽ giúp chúng ta có cơ hội để tiêu diệt bọn nội thù Việt Gian Cộng Sản trong một ngày rất gần đây.
Khi vận nước hết suy thì phải đến hồi thịnh vượng, dân tộc, đất nước Việt Nam đến chu kỳ phồn thịnh. Sự thịnh suy của một nước hay một quốc gia hay số mệnh của mỗi cá nhân đều có có gốc có ngọn, có “tiền” có “hậu”. Nếu những người với tâm lành hay đi vào định mệnh thì ta sẽ làm theo tiền “nhân” - hậu “quả” rồi sẽ tính ra số mệnh. Không thể nói theo những yếu tố thông thường của người bình thường. Nếu ta cầm vận mệnh đất nước cần phải suy xét nhiều yếu tố và nguyên nhân đưa đến sự thịnh-suy của cá nhân hay của cả một dân tộc, cũng nhiều chuyện đại họa có thể xảy ra ngoài sự dự liệu của ta. Hình như không mấy ai nghĩ đến sự suy vong tàn phá khi họ đang thinh vượng? Rất ít người nhìn xa thấy rộng, đoán trước được tương lai của mình hay vận mệnh đất nước của mình sẽ đi về đâu?. Số mệnh con người cũng thăng trầm không bao giờ hoàn toàn tốt đẹp như ý muốn.
Đã mấy người khi ta đang giàu có, mạnh khoẻ, tiền rừng bạc bể, ăn xài hưởng thụ xa hoa như bọn Việt Gian Cộng Sản hiện nay, mà lại nghĩ đến lúc phải phá bại, xụp đổ, “tha phương cầu thực”, bệnh hoạn, già yếu, bất lực và cái chết sẽ đến kề một bên. Suốt cuộc đời có nhiều phần đi theo định mệnh thịnh-suy. Vì vậy ta cần phải biết số mệnh của ta và của đất nước. Cũng như khi đất nước suy vong loạn lạc, ta không thể ngồi yên để hưởng thụ, ta phải hiểu mọi việc không tồn tại theo thời gian. Trừ khi riêng ta đã quyết tâm tự tu tâm, tu thân (Tu ở đây không phải chỉ ngồi để đọc “kinh” hay “cầu nguyện”), để hiểu được luật của trời đất và nghiệp báo trên con đường chúng ta đang đi, ta có thể tự ta giải thoát khỏi nghiệp báo nếu ta biết làm điều Thiện. Người xưa đã nói: “Gieo nhân nào tức sẽ hái quả đó”. Bọn Việt Gian Cộng Sản đã làm hàng vạn điều tàn ác không thể kể hết được, thì như vậy một ngày gần đây chúng phải trả nợ cho hàng triệu linh hồn đã chết oan uổng vì sự tàn bạo, tàn ác của chúng đã gây ra.
Người Tầu như trên đã có nói, từ xa xưa họ đã nghĩ cách thôn tính Việt Nam . Đến khi đế quốc Cộng Sản Liên Xô tan rã vào cuối năm 1991 Trung Cộng đã ra tay trước khi bọn Việt Gian Cộng Sản Hà Nội có thể chạy theo Mỹ hoặc là Mỹ có thể trở lại Việt Nam. Nhưng Trung Cộng thôn tính Việt Nam bằng cách nào? Bằng xâm lăng quân sự? Bằng áp lực quân sự? Bằng kinh tế và buộc bọn Việt Gian Cộng Sản phải thần phục và làm bù nhìn tay sai cho Bắc Kinh như chúng ta đã thấy hiện nay. Xã hội Việt Nam hiện nay sự sa đoạ, đói khổ, suy thoái, ô nhiễm, thất học, tham nhũng bất công, đầy giẫy, tội ác do bọn Việt Gian Cộng sản gây ra đã làm cho xã hội Việt Nam hiện nay đến mức đại loạn. Dân tình thán oán, nguyền rủa bọn Việt Gian Cộng Sản không tiếc lời. Những cảnh người già 80-90 tuổi vẫn phải ngồi đầu đường trãi tờ báo bán xoài, hay những cụ già đã 90 tuổi vẫn còn đạp xe chở chuối đi bán rong. Hàng triệu trẻ em thất học nghiện ngập, hàng vạn trẻ em trong tuổi độ 6 -10 đang sống những đống rác, trong nghĩa địa.
Hiện nay nếu khi hữu sự cần động viên nhân dân để chống trả mọi cuộc xâm lăng từ bên ngoài thì bọn Việt Gian Cộng Sản chắc chắn không thể kết lực hay hợp lực để kêu gọi sự đoàn kết ủng hộ của toàn dân Việt. Vì Việt Gian Cộng Sản chúng quá tàn ác nên không thể có cái thế nhân hòa, nên bọn cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đành phải uốn gối khấu đầu quỳ lạy bất cứ cường quốc nào để bán nước, để được có nhiều tiền, được yên thân hưởng thụ và chuyển tiền đi cất dấu. Để sớm tóm thâu Việt Nam , Trung Cộng cần phải thôn tính ngay giang san nước Việt bằng quân sự, kinh tế và xua dân Tầu sang đất Việt trước khi thời thế biến chuyển sang một bước ngoặc khác. Đây là một sự thật mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân Việt trong nước và hải ngoại phải nhìn thấy rõ, cũng như chúng ta cần phải nhìn kỹ bộ mặt thật của bọn Việt Gian Cộng sản bán nước.
Nhắc lại trước đây vào cuối năm 1992, lúc đó thủ tướng Trung Cộng là Lý Bằng sang Việt Nam . Lý Bằng đến Hà Nội để “gặp gỡ” những tên cầm đầu Cộng Sản Hà Nội như: Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt và Phạm Văn Đồng (Phạm văn Đồng 1906-2000). Bên ngoài cuộc viếng thăm này có vẻ “hữu nghị” nối lại bang giao đã lạnh nhạt gián đoạn từ năm 1978, (sau việc Cộng Sản Hà Nội đánh đuổi Hoa kiều vào năm 1978, và sau đó là chiến tranh biên giới Việt-Trung xảy ra ở Lạng Sơn ngày 17 -02-1979). Ngoài cuộc viếng thăm để dàn xếp các cuộc tranh chấp lớn nhỏ kể cả vấn đề chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Nhưng sự thật có phải như thế không?. Họ Lý đã không đi một mình, họ Lý đem theo một số nhà tướng số, địa lý, phong thủy và tâm lý gia, chuyên gia chiến lược để đánh già toàn bộ tình hình Việt Nam cùng đám cầm quyền Việt Gian Cộng sản Hà Nội, đánh giá xã hội dân trí, dân sinh Việt Nam để quyết định rõ rệt thời sự chính trị quốc tế. Chỉ trong hai ngày ở Hà Nội, các nhà tướng số của Trung Cộng đánh giá là bọn cầm quyền Cộng Sản Hà nội là quá thấp kém. Họ cho biết rằng bọn cầm đầu Việt Gian Cộng Sản Hà Nội chỉ là phường giá áo túi cơm, lưu manh vặt, chỉ có tiểu xảo, tiểu nhân, nhỏ mọn thấp kém không hiểu đến đại sự. Tóm lại bọn cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã hết thời, đã suy nhược hèn nhác đến cùng và từ bọn cán bộ trung cấp đến cao cấp trung ương chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham, hưởng thụ, ích kỷ và không ai có tài cán gì để “kinh bang tế thế”. Không ai có tài thao lược để đối phó quân sự bên ngoài.
Vân Anh
Xin xem tiếp bài 4b và hết
Ghi Chú: Xin đọc giả trong và ngoài nước đón đọc loạt bài của tác giả Trung Nhân nêu rõ tội ác của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản qua tên gián điệp văn hóa Nguyễn Chí Thiện và con bài Trần Nhu đã lừa bịp người Việt tị nạn Cộng sản ở hải ngoại như thế nào trong 13 năm qua (1995 - 2008). Đến nay dù tên gián điệp văn hóa Nguyễn Chí Thiện đã lộ mặt qua loạt bài của tác giả Triệu Lan được đăng trên Nhật Báo và Tuần Báo Sài Gòn Nhỏ. Sau đó cuộc “đối chất” hay nói đúng hơn là: bà chủ nhiệm, chủ bút Hoàng Dược Thảo đã lật mặt tên Đại Bịp Nguyễn Chí Thiện tại khách sạn Ramada miền Nam California Hoa Kỳ vào cuối năm 2008 sang đầu năm 2009. Nhưng một số con buôn chính trị tại Hoa Kỳ (cả Mỹ lẫn Việt) vẫn còn tiếp tục lừa bịp người Việt tị nạn Cộng Sản qua các tên “trí thức hèn” ở hải ngoại.
|
|
Cố Cung (cung điện cũ) là quần thể kiến trúc với quy mô lớn nhất, có giá trị nghệ thuật cao được bảo tồn hoàn chỉnh nhất ở Bắc Kinh. Cố Cung được bắt đầu xây dựng từ thời Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) và hoàn thành vào năm 1424. Cố Cung đã trải qua nhiều lần tu sửa do bị cháy hoặc hư hỏng nhưng vẫn giữ được bố cục ban đầu.
Cố Cung xưa kia gọi là Tử Cấm Thành. Chữ “Tử” có nghĩa là “màu tím”, lấy ý theo thần thoại: Tử Vi Viên ở trên trời là nơi ở của Trời, Vua là con Trời nên nơi ở của Vua cũng gọi là Tử, Cấm Thành là khu thành cấm dân thường ra vào. Đây là cung điện của 24 đời vua thuộc 2 triều đại Minh - Thanh từ Minh Vĩnh Lạc (1421) 296 năm đến thời Thanh mạt (1911) 267 năm.
Bố cục của Cố Cung được xây dựng trên 1 khu đất rộng hình chữ nhật, diện tích khoảng 720.000m2. Cố Cung gồm có: 5 triều đình, 17 điện, trong đó có 8 dinh cơ và khoảng 9.000 phòng. Xung quanh có tường thành cao 10m bao bọc, ven ngoài tường có hào nước rộng 52m. Bốn góc thành có 4 tháp canh, 4 mặt thành có 4 cửa ra vào đối diện nhau: Ngọ Môn, Thần Vũ Môn, Đông Hoa Môn, Tây Hoa Môn.
Các kiến trúc quan trọng của Cố Cung đều nằm trên 1 đường trục Nam - Bắc ở chính giữa. Hai bên là các kiến trúc phụ đối xứng nhau.
Cửa Ngọ MônNgọ Môn là cửa chính để vào Cố Cung nằm ở phía Nam trên trục chính. Ngọ Môn được xây dựng theo kiểu hình chữ U, phía dưới là khối tường thành dày và cao, có trổ 5 cửa vòm. Bên trên xây 1 toà điện lớn 9 gian ngay mặt chính, 4 góc hình chữ U xây 4 điện vuông. Năm toà điện này đều 2 tầng, mái được nối với nhau bằng hành lang cửa sổ có mái che. Ngọ Môn còn có tên là Ngũ Phượng Lầu. Các kiến trúc trong Cố Cung chiếu theo tính chất sử dụng được phân thành 2 khu vực: ngoại triều và nội đình.
Ngoại triều: là nơi cử hành các đại lễ, chủ yếu bao gồm quần thể kiến trúc lớn: điện Thái Hoà, Trung Hoà, Bảo Hoà (gọi là Tiền Tam điện) trên trục chính và 4 nhóm kiến trúc giáp ngoài đối xứng với nhau.
Khi vào cửa Ngọ Môn, trước mặt là 1 quảng trường có con sông Kim Thuỷ chảy ngang qua hình dây cung. Chính giữa có 5 chiếc cầu bằng đá trắng lớn, hai bên cầu và hai bên sông đều có lan can bằng đá trắng. Đối diện với Ngọ Môn là Thái Hoà Môn thuộc quần thể kiến trúc Tiền Tam điện. Quần thể này được xây dựng trên đài cao 6m, gần giống như hình chữ Thổ (TQ). Đài chia làm 3 tầng, mỗi tầng đều có lan can bằng đá trắng bao quanh, 4 mặt đều xây bậc lên xuống, chính giữa mỗi bậc đều có 1 tảng đá lớn hình chữ nhật, bên trên khắc hình rồng mây rất tinh tế.
Cửa Thái HoàĐây là cửa lớn của 3 điện lớn ở Tử Cấm Thành, đằng trước có 7 gian dựng trên 1 nền đá cao. Ở 2 bên phía trước có con sư tử đồng ngồi ở bệ đá. Sư tử vốn ở Châu Phi, đến đời nhà Hán, quốc vương Sri Lanca dùng sư tử làm vật tiến cống Hoàng đế nhà Hán. Từ đó, sư tử du nhập vào Trung Quốc. Sư tử là loài vật có sức mạnh, lại rất hung dữ, khiến nhiều loài thú rừng khác phải khiếp sợ, vẫn được mệnh danh là Chúa Sơn lâm. Cách bố trí để 2 con sư tử trước cửa nhằm làm tôn thêm vẻ uy nghiêm của kiến trúc và sức mạnh của Thiên triều.
Trước Thiên An Môn và trước cửa các kiến trúc quan trọng khác của Tử Cấm Thành đều có đặt sư tử đá và cách bài trí theo 1 kiểu cách nhất định. Tức là bên trái cửa có con sư tử đực đạp chân lên quả cầu, phía phải là sư tử mẹ đang vui đùa với sư tử con. Vua Thuận Trị nhà Thanh lần đầu tiên vào quan nội, khi tiến vào Tử Cấm Thành đã cho cử hành nghi lễ ban chiếu chỉ đầu tiên của nhà vua tại cửa Thái Hoà.
Điện Thái HoàĐiện Thái Hoà là ngôi điện quan trọng nhất của Tử Cấm Thành, không chỉ vì vị trí của nó ở trung tâm Tử Cấm Thành mà về hình thể kiến trúc, về trang trí và các mặt khác đều đứng hàng đầu trong quần thể kiến trúc đó.
Các kiến trúc của Trung Quốc thời trước to hay nhỏ thường lấy số gian làm chuẩn mực. Điện Thái Hoà có 11 gian, cao 26,9m tính từ mặt đất lên nóc điện. Đây là công trình kiến trúc số 1 thời xưa còn giữ lại. Mái của các kiến trúc ngày xưa có nhiều loại và nhiều kiểu xây dựng khác nhau, 1 tầng hoặc 2 tầng. Tuỳ theo từng kiến trúc to hay nhỏ, mức quan trọng ra sao mà có cách xử lý mái khác nhau. Điện Thái Hoà là công trình quan trọng bậc nhất nên toàn bộ mái lợp bằng ngói lưu ly màu vàng. Khi mặt trời rọi xuống, từ mái điện phản chiếu lên ánh hào quang sáng chói. Toàn bộ tường và cửa sổ màu đỏ dưới nền màu trắng trông thật rực rỡ. Trên nóc điện, ở 2 phía có đắp 2 đầu rồng cao 3m và dọc theo nóc điện có đắp 1 loạt những con vật nhỏ dáng vẻ như đang di động. Các cửa ra vào và cửa sổ đều có những mảng hoa văn.
Trong điện Thái Hoà có 6 cây cột giữa sơn son thếp vàng với hình những con rồng vàng lượn khúc. Ở trần nhà, trên đầu 6 cây cột được thiết kế tạo dáng như hình 1 cái giếng hình vuông rồi dần dần thu nhỏ lại, từ hình vuông chuyển thành hình bát giác và trên cùng vẽ hình 1 con rồng lượn khúc mặt nhìn xuống dưới, phía trước là 1 khối thủy tinh hình tròn. Bệ rồng của nhà vua là 1 ngai vàng đặt trên bục gỗ dưới cây cột vàng. Đằng sau ngai vàng là chiếc bình phong 7 cánh, phía trước bình phong có bày nhang án, lư hương, chim công…Nếu cho điện Thái Hoà là trung tâm của Tử Cấm Thành, thì bệ rồng phải là trung tâm của trung tâm.
Trang trí ở điện Thái Hoà phần lớn là hoa văn hình rồng. Người Hán coi rồng là tượng trưng cho dân tộc Trung Hoa. Trong giới học giả Trung Quốc, đối với rồng có nhiều giả thiết khác nhau. Người cho rồng là hình tượng tổng hợp của nhiều con vật, như: rắn, cá, trâu, bò, chim muôn…Người cho rồng là hình tượng của mây mưa, sấm chớp. Cũng có người cho rồng là hình tượng của khủng long và cá sấu hợp lại…
Thực ra, cho đến nay, người ta chưa kết luận được rằng rồng là loài vật như thế nào nhưng rồng vẫn luôn được nhân dân Trung Quốc coi là con vật thiêng. Từ khi Hán Vũ Đế tự nhận mình là con rồng thì các hoàng đế Trung Hoa sau đó đều tự coi mình là rồng, là con trời, được Thượng Đế phái xuống trần gian để trông coi trăm họ. Do đó, cung điện vua ở gọi là Long cung, quần áo vua mặc gọi là Long bào, ghế vua ngồi gọi là Long kỷ, các đồ dùng của vua đều chạm trổ hoa văn hình rồng và các hoa văn trang trí trong cung điện nhà vua đâu đâu cũng mang hình rồng. Con đường chính nhà vua đi có lát 9 phiến đá lớn, trên mặt chạm trổ 9 con rồng, biểu tượng của Cửu trùng đài.
Ở điện Thái Hoà, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, người ta cộng lại tất cả có 12.654 hình con rồng uốn lượn trong mọi tư thế.
Điện Trung Hoà và điện Bảo HoàĐiện Trung Hoà là nơi để vua chuẩn bị trước khi tới điện Thái Hoà ngự triều, diện tích hơi nhỏ, bài trí cũng đơn giản. Điện Bảo Hoà là nơi cử hành ngự thi, tức là các khoá sinh thi đậu Tiến sĩ ở các nơi được gọi đến Điện Bảo Hoà để vua đích thân khảo tra lại lần cuối cùng, nên nơi đây có diện tích rộng, được xây dựng và trang hoàng lộng lẫy.
Điện Bảo Hoà có 9 gian, còn điện Trung Hoà hình vuông, rộng 5 gian. Cả 3 ngôi điện: Thái Hoà, Trung Hoà và Bảo Hoà đều lợp bằng ngói lưu ly màu vàng, cửa sổ màu đỏ cùng trên nền màu trắng nhưng về khối hình thì 2 lớn 1 nhỏ, mái của 3 ngôi điện khác nhau họp thành 1 quần thể kiến trúc hài hoà, phong phú, đa dạng.
Cung Càn ThanhĐây là cung lớn ở phía sau Tử Cấm Thành, nơi ở của Nhà vua và Hoàng Hậu. Ở đây còn là nơi vua tiếp kiến các đại thần và giải quyết công việc hàng ngày. Sau khi lên ngôi, vua Ung Chính (nhà Thanh) dời nơi ở đến điện Dưỡng Tâm nằm ở phía Tây, nên cung Càn Thanh được nhà vua dùng làm nơi giải quyết công việc triều chính, tiếp kiến đại thần, hội kiến với sứ thần ngoại quốc nên trang trí cũng đơn giản.
Phía trên nơi vua ngồi có treo bức đại tự với 4 chữ “Chính Đại Quang Minh”. Các hoàng đế Trung Quốc lên cầm quyền bằng chế độ truyền ngôi cho nhau, nên lúc vua còn sống phải công bố rõ ràng ai sẽ là người kế vị tiếp nối sau khi vua băng hà. Vì vậy, sự tranh chấp ngôi vua thường diễn ra rất quyết liệt, khi thầm lén, lúc công khai trong hoàng tộc và quần thần.
Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh có 35 con trai. Sau 1 thời gian dài tranh chấp, cuối cùng người con trai thứ 4 của ông được kế vị. Sau khi Ung Chính lên ngôi vua, ông rút kinh nghiệm nên đã đưa ra quyết định là lúc vua còn sống không công bố tên tuổi người kế vị, mà chỉ viết tên tuổi người đó vào 2 mảnh chiếu chỉ: 1 mảnh Nhà vua giữ bên mình, còn mảnh kia được để ở cung Càn Thanh, phía sau bức đại tự Chính Đại Quang Minh, chờ khi vua băng hà mới đem 2 mảnh có tên người đó gộp lại và công bố cho mọi người biết.
Điện Giao Thái, cung Khôn NinhCung Khôn Ninh đời Minh và đầu đời Thanh là nơi ở của Hoàng hậu. Sau này bên trong chia làm 2 phần: phía Đông, Hoàng đế dùng làm nơi động phòng sau buổi kết hôn, phía Tây làm nơi cúng lễ. Ở vào khoảng giữa 2 cung Càn Thanh và Khôn Ninh có điện Giao Thái hình vuông, quy mô không lớn, là nơi để Hoàng hậu tiếp đón Hoàng thân Quốc thích đến chào mừng nhân ngày Lễ, Tết. Nó được trang trí có hoa văn rồng và hoa văn phượng xen lẫn nhau. Rồng tượng trưng nhà vua, còn Phượng tượng trưng hoàng hậu. Lối kiến trúc của 3 ngôi điện lớn ở tiền triều phía trước, nhưng về quy mô to nhỏ, cao thấp, rộng hẹp thì kém nhiều.
Ngự hoa viên (vườn Thượng Uyển)Phần phía sau cùng ở Tử Cấm Thành là Ngự hoa viên mà trong các sách Việt Nam thường gọi là Vườn Thượng Uyển. Đó là vườn hoa trong cung đình. Ngự hoa viên có diện tích rộng chừng 11.000m2, có đình, đài, lầu, các.
Về thực vật, ngoài các cây vốn sinh trưởng ở miền Bắc Trung Quốc, ở đây còn tuỳ theo thời tiết từng mùa trồng xen vào những bồn hoa, cây cảnh phương Nam và từ khắp nơi trong nước gửi về tiến vua những mẫu hình đá quý, những hòn non bộ được trưng bày trong vườn làm cho Ngự hoa viên có 1 cảnh sắc hoà đồng với thiên nhiên, hoàn toàn khác biệt với cảnh nguy nga tráng lệ của quần thể các cung điện phía trước.
Điện Dưỡng TâmĐiện Dưỡng Tâm không nằm ở trục chính giữa của Tử Cấm Thành mà là ở phía Tây, phần Hậu tẩm. Điện vốn là nơi ở của Hoàng Thái hậu, đến đời vua Ung Chính nhà Thanh thì dùng làm nơi ăn nghỉ của nhà vua, còn là nơi tiếp kiến các đại thần, giải quyết công việc thường nhật, nên ở giữa điện không có ngai vàng.
Đông Noãn Các trong điện cũng là nơi nhà vua và đại thần nghị sự. Thời vua Đồng Trị nhà Thanh, do bà mẹ là Từ Hy Thái hậu chuyên quyền, nên mỗi lần Nhà vua nghị bàn giải quyết công việc quốc gia thì Hoàng đế ngồi trên ngự kỷ ở Đông Noãn Các, phía sau ghế vua ngồi có 1 tấm màn rủ là 2 bà Đông, Tây Thái hậu ngồi nhiếp chính (huấn dụ). Trên thực tế, Đồng Trị chỉ là ông vua bù nhìn, còn mọi việc triều chính điều hành đều do Từ Hy thái hậu định đoạt.
1 comment:
Cám ơn tác giả Vân Anh, bài viết rất hay.
Post a Comment