.
Diễn Văn Của Tổng Thống Trần Văn Hương
đọc trước Quốc Hội Lưỡng Viện VNCH
Ngày 26 Tháng 4 năm 1975
LỜI NÓI ĐẦU: Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa họp để bàn về việc Tổng thống Trần Văn Hương sẽ bàn giao chức vụ cho Đại tướng Dương Văn Minh để thương thuyết với phe cộng sản, tìm một giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Cụ Hương đã tiếp xúc với Đại tướng Dương Văn Minh để mời ông Minh đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng. Nhưng tướng Minh không chịu và đòi cụ Hương phải nhường cho ông Minh chức tổng thống Đại tướng Minh nói với cụ Hương "Thầy đã hy sinh đến mức này, thôi xin thầy ráng hy sinh một bước nữa là thầy trao trọn quyền cho tôi."
Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương
Hai văn kiện lịch sử cuối tháng tư 1975
KBC Hải ngoại số 39, tháng Tư 2009 | Email to Friend |
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương Quyết định: 1. Nay đề cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đại diện Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa đến Đài Bắc để phân ưu cùng chánh phủ và nhân dân Trung Hoa Dân Quốc nhân dịp Tổng thống Tưởng Giới Thạch tạ thế. 2. Sau đó hai vị trên được đề cử tiếp tục viếng thăm các quốc gia trên thế giới xét cần thiết trong vòng 6 tháng để làm sáng tỏ thiện chí hòa bình của Việt Nam Cộng Hòa đồng thời vận động các chánh phủ và nhân dân các quốc gia đó hỗ trợ lập trường hòa bình của chánh phủ và nhân dân ta. Chương trình thăm viếng sẽ do hai vị tùy nghi quyết định thể theo sự thuận lợi của tình hình đối với các quốc gia đó. 3. Yêu cầu Bộ Ngoại giao chỉ thị các Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa yểm trợ cần thiết để nguyên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và nguyên Thủ tướng Trần Thiện Khiêm cùng phái đoàn chu toàn nhiệm vụ giao phó. Chi phí công tác do Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng đài thọ “trong khuôn khổ được luật lệ ấn định” (do Tổng thống Hương viết thêm vào văn kiện). Sài Gòn ngày 25 tháng 4, 1975 (Ký tên Hương) Nguyễn Văn Thiệu Sài Gòn 25/4/75 Kính trình Tổng thống Trần Văn Hương, Thưa Cụ, Để thực hiện công tác cụ giao phó, tôi kính xin cụ chấp thuận cho những sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi , đi theo tôi trong suốt thời gian công du: 1. Đại tá Võ Văn Cẩm Ngoài ra cựu Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm cũNg cần đem theo những sĩ quan và dân sự sau đây: 1. Trung tá Đặng Văn Châu Đại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình cụ chấp thuận. Kính chào Tổng thống, (Ký tên Thiệu) Tổng thống Trần Văn Hương phê “Thuận”, đề ngày 25/4/75, ký tên Hương |
Thưa Chủ tịch Quốc Hội,
Thưa Chủ tịch Hạ Viện,
Thưa quý vị Nghị sĩ,
Thưa quý vị Dân biểu,
Tôi nhiệm chức hôm nay đã được năm ngày. Nói rằng ở đây để đọc một cái thông điệp, tôi không có cái táo bạo như vậy, bởi vì tình thế nghiêm trọng của đất nước. Vả lại như quý vị đã biết, tôi không quen nói những lời văn hoa mà không có ý nghĩa, cho nên tôi xin thưa trước quý vị đây không phải là một thông điệp. Đây chẳng qua là lời thành khẩn, thật tình của một người vì nước, đến trình bày mọi việc để quý vị rõ và quyết đoán.
Thưa quý vị, tình trạng đất nước khó khăn như thế nào, có lẽ quý vị đã biết rõ rồi. Tổng thống trao quyền lại cho tôi chẳng những là khó khăn, mà còn rất là bi đát. Bởi vì như quý vị đã biết, trong bốn vùng của chúng ta, hiện giờ chúng ta đã mất hơn hai vùng rồi, còn lại vùng III và vùng IV thì đã sứt mẻ, và sứt mẻ này có thể một ngày một lan rộng, và tình trạng khốn khổ, đau thương chẳng những là của toàn xứ mà của cả Sài Gòn và Chợ Lớn này trong những ngày gần đây.
Kính thưa quý vị,
Hiện giờ bên cạnh chúng ta là thành Nam Vang vừa rồi đây quý vị đã thấy. Cảnh Sài Gòn, Chợ Lớn nếu không khéo dàn xếp thế nào thì e rồi đây Sài Gòn sẽ thành một núi xương, một sông máu. Điều mà những người có lòng yêu nước không thể không nghĩ đến được, không thể chấp nhận được. Riêng tôi đây, tôi cũng không chấp nhận được. Bởi vậy cho nên, những vấn đề nói rằng chúng ta phải tiếp tục tranh đấu, vấn đề chúng ta đành phải nhận, phải làm, bất kỳ với giá nào cũng phải làm, những cái đó không thể giải quyết như vậy được.
Bởi vì vậy, khi tôi chấp nhận nhiệm vụ nối tiếp chánh quyền trước kia, thì tôi đã đưa ý rằng vấn đề phải giải quyết bằng một giải pháp chính trị, nghĩa là phải chấp nhận thương thuyết. Và đây, tôi xin công khai rằng chánh phủ của tôi và chánh phủ nào sẽ thành lập theo ý của tôi. lẽ cố nhiên là với sự chấp thuận của Quốc Hội. Chánh phủ đó sẽ đứng ra thương thuyết.
Thưa quý vị,
Đã nói cái chữ thương thuyết, không phải thương thuyết là đầu hàng. Nếu thương thuyết là đầu hàng thì còn thương thuyết gì nữa! Thà là chết cho đến cùng chứ sao lại gọi là thương thuyết được! Bởi vậy cho nên đã đặt là thương thuyết, tất nhiên cũng phải chấp nhận những điều kiện gì đau đớn. Nhưng những điều kiện đó không phải là đến lúc phải hoàn toàn chúng ta đầu hàng. Nếu phải đầu hàng, thì chúng ta đây, quý vị và tôi, sẽ trao lại cho quân nhân, chứ không phải là chúng tôi quyết định chuyện đó.
Với ý nghĩa đó, nghĩa là ý nghĩ thương thuyết, tôi đã ra công dò xét tìm bên này, tìm bên nọ, hỏi thăm dò ý kiến mọi nơi. Tới bữa nay cũng nói với quý vị là tôi có dịp đã gặp được Đại tướng Dương Văn Minh, bởi vì theo lời một số người, thì Đại tướng Dương Văn Minh có đủ điều kiện làm việc này.
Trong các cuộc gặp gỡ, trong một tư thất của một người bạn chung - bởi vì họp mặt tôi muốn tránh tiếng trước, không thể mời Đại tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không thể tự mình tới nhà Đại tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đã cùng nhau đến nhà một người bạn chung - Sau khi nói chuyện, tôi nói rằng: "Theo dư luận, một số người nói rằng Anh - xin lỗi, bởi vì giữa Đại tướng với tôi cũng còn cái thâm tình nhiều - người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm qua, mọi chuyện không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phía bên kia." Đại tướng, lẽ cố nhiên đối với tôi lúc nào cũng giữ thái độ chẳng những là người bạn thân mà giữ cả thái độ, xin lỗi, như thể một người học trò của tôi vậy, mặc dù Đại tướng không phải là học trò của tôi, Đại tướng nói: "Thầy đã hy sinh đến mức này, thôi xin thầy ráng hy sinh một bước nữa mà thầy trao trọn quyền cho tôi." Nghĩa là trao cái quyền tổng thống cho Đại tướng.
Thưa quý vị,
Nước Việt Nam của chúng ta mặc dầu mất rất nhiều rồi, nhưng cái gọi là pháp lý, căn bản pháp lý vẫn còn. Quốc Hội vẫn còn đây, Hiến Pháp vẫn còn đây, tôi không thể làm một chuyện qua mặt được Quốc Hội và qua mặt được Hiến Pháp... (vỗ tay). Vả lại cái quyền hiện giờ gọi là ở trong tay tôi, là một cái quyền cũng do nơi Hiến Pháp mà ra. Đây không phải là một cái khăn mouchoir, đây không phải là một tờ giấy bạc từ ở trong tay tôi, tôi móc ra đưa cho Đại tướng, "Đây, cái quyền đây này." Tôi không thể làm như vậy được. Bởi vậy cho nên tôi nói vấn đề này tôi không thể giải quyết được. Nếu có muốn giải quyết chăng nữa, rồi đây tôi phải trình lại với Quốc Hội để Quốc hội quyết định coi thế nào.
Thưa quý vị,
Đại tướng cho rằng mình có thể nói chuyện với bên kia. Đại tướng nói rằng bên kia đã chấp nhận nói chuyện với Đại tướng. Cái chuyện này tôi xin phép không phải là tôi ngờ, nhưng mà tôi, khi nào tôi nắm được bằng cớ chính rồi, chừng đó tôi mới tin được là như vậy. Nhưng theo tôi thiết nghĩ, Đại tướng trong cuộc thương thuyết này là lãnh nhiệm vụ của một người do Quốc Hội chấp nhận đứng ra thương thuyết mà giao cho Đại tướng. Nếu mà Đại tướng tự nhiên đi nói chuyện với bên kia, xin lỗi, Đại tướng đến nói chuyện với danh nghĩa là gì? Đại tướng nói chuyện đại diện cho ai mà nói chuyện với bên kia? (vỗ tay)
Lại một điểm nữa, tôi nghĩ Đại tướng đã có cái gì mà cam đoan rằng những điều kiện Đại tướng sẽ thâu thập được đó là điều kiện, tôi không nói là hoàn toàn thuận lợi, mà là điều kiện ít đau khổ, ít nhục nhã cho nước Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, nghĩa là của chung chúng ta. Ở đây có cái gì bảo đảm chuyện đó hay không?
Một điểm nữa... hai chính phủ thương thuyết với nhau, có thể nào chính phủ này kêu chính phủ kia: "Nói anh phải chỉ định người này, người này nè, ra thương thuyết tôi mới chấp nhận, bằng không phải như vậy, tôi không chấp nhận." Có thể nào có được như vậy không? (vỗ tay)
Bởi vậy, đây cái chuyện, xin lỗi, đã thật là khó hiểu nổi. Lấy cái lý trí của con người, dẫu mà sơ đẳng thế nào, cũng không thể hiểu được.
Hôm nay đến trước mặt Quốc Hội, tôi trình bày vấn đề, thì như đã nói khi nãy, đây là một điểm mà Quốc Hội toàn quyền quyết định. Nếu nghĩ rằng tôi phải giao quyền lại cho Đại tướng Dương Văn Minh, tôi xin phép vâng lời Quốc Hội, tôi sẽ giao quyền lại cho Đại tướng Dương Văn Minh. Còn như nếu quý vị tính cái chuyện khác, đó là toàn quyền của quý vị, tôi không chen vào đó.
Một điểm sau, nhiều khi người ta nghĩ rằng tôi bị áp lực, áp lực chỗ này áp lực chỗ nọ, thì thưa quý vị, đây không phải là tự mình vẽ bùa để cho mình đeo, tôi bình sanh tới thuở giờ, không chấp nhận một áp lực của ai hết, mặc dù là áp lực của người gọi là bạn của mình hay là người tưởng là có quyền cho mình cái lịnh đó. Xin lỗi quý vị, tôi không có cái điểm đó. Vả lại đây là việc nước chung, việc nước chung nếu may ra trong cuộc thương thuyết này chúng tôi được những điều kiện nó còn phần nào, vì nó là vấn đề nhân đạo, hai là vấn đề lương tâm, ba là vấn đề thể diện. Chúng ta còn có thể chấp nhận được, thì thưa với quý vị, chừng đó dầu thế nào cái quyền quyết định là quyền của Quốc Hội, không phải quyền của tôi. Đây tôi xin xác nhận lại một lần nữa.
Bởi vậy cho nên khi tôi xin với quý vị, lát nữa đây những việc cho tôi trọn quyền chỉ định người đi thương thuyết này trong căn bản mà tôi mới vừa nói tới. Nếu được, tôi sẽ trình lại với Quốc Hội coi chấp nhận hay là không chấp nhận. Còn như quý vị nghĩ rằng không chấp nhận, bởi vì đây là một điều kiện khắt khe, một điều kiện của người thắng trận viết cho người bại trận, thì chúng ta không còn nước gì khác hơn là lúc đó chúng ta cứ việc chết tới cùng, không còn biết làm sao hơn được (vỗ tay) ... thì chừng đó dầu cái thành Sài Gòn này sẽ biến thành một biển máu, tôi nghĩ rằng người Việt Nam vì thể diện của mình, không thể nào từ chối được, trừ một số người không đáng gì (vỗ tay) nói là không thể nào chấp nhận được chuyện đó.
Thôi tôi không dám nói dài làm mất thời giờ của quý vị. Tôi chỉ nhắc lại một điểm, là xin quý vị quyết định. Nếu tôi phải trao quyền lại cho Đại tướng Dương Văn Minh, tôi xin sẵn sàng vâng lời quý vị, tôi sẽ trao lại cho Đại tướng Dương Văn Minh. Như thế quý vị chấp nhận rằng tôi có thể chỉ định một chính phủ nào gọi là chính phủ để đứng ra thương thuyết trong căn bản vãn hối hòa bình, trong tinh thần hiệp định Paris, để cho hai nước, cái chuyện vì lẽ cố nhiên một chuyện chúng ta đã mất rồi, theo những chuyện chúng ta đã biết trong hai ngày...
Nguồn
1- Viện Bảo Tàng Việt Nam, San Jose (Viết Từ Băng Ghi Âm)
2-Theo bài viết của GS Nguyễn Ngọc An, nguyên Tổng Trưởng Thông Tin Chiêu Hồi trong nội các Trần Văn Hương đã ghi âm lại và đã đăng trong Đặc San Pétrus Ký miền Nam Calfornia (1996).
Ghi chú: Sau bài diễn văn của Tổng thống Trần Văn Hương, Quốc Hội đã thảo luận và biểu quyết với đa số đồng ý giao quyền cho Đại tướng Dương Văn Minh. Hai ngày sau, lúc 17 giờ ngày 28 tháng 4-1975 lễ bàn giao đã diễn ra tại Dinh Độc Lập.
Vị Tổng Thống Dân Cử Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa
Ông TRẦN VĂN HƯƠNG
Cựu Giáo Sư Trường Trung Học Mỹ Tho
Nguyễn Thanh Liêm
Từ lúc bắt đầu đi học cho đến bây giờ, tôi đã có rất nhiều may mắn được học hỏi với biết bao nhiêu thầy cô đáng thương đáng kính. Nhưng ngoài những thầy cô đáng thương đáng kính ấy còn có ba bậc thầy tôi rất mực tôn sùng, nhưng tôi không hề được thọ giáo bao giờ.
Vị thứ nhất là một nhà nho có học vị cao nhất Miền Nam, là vị tiến sĩ Nho học đầu tiên và duy nhất của Miền Nam, cụ Phan Thanh Giản, một nhà cai trị đầy lòng yêu nước thương dân với chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Vị thứ hai là một nhà văn hóa có cái học uyên thâm, nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký, và vị thứ ba là cụ Trần Văn Hương, cựu giáo sư Trường Trung Học Mỹ Tho, và cũng là vị Tổng Thống dân cử cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa.
Cụ Phan Thanh Giản cả đời lo cho dân cho nước, địa vị có cao, nhưng cuộc đời hết sức giản dị đạm bạc, cuối cùng phải tuẩn tiết đền ơn sông núi sau khi đã tiết kiệm được bao nhiêu xương máu của người dân Nam Kỳ. Ông Đốc Ký thì đã đi dạy từ hơn nửa thế kỷ trước khi tôi chào đời, đã để lại cho Việt Nam một công trình văn hóa to lớn, đã khai đường mở lối cho nền văn chương chữ quốc ngữ, và đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc xây dựng nền học thuật mới, tổng hợp khoa học kỹ thuật Âu Tây với luân lý đạo đức Á Đông vào hồi cuối thế kỷ thứ XIX. Vị thứ ba là cụ Trần Văn Hương, tuy không có một công trình văn hóa lớn lao như hai vị trên, nhưng đã để lại trong lòng người dân Việt một hình ảnh không phai mờ của một kẻ sĩ đầy khí tiết, một tấm gương ngay thẳng trong sạch, và là một chính trị gia lúc nào cũng tận tụy, hy sinh cho dân chúng và quốc gia Việt Nam trong thời đen tối của lịch sử hiện đại.
Về hai vị thầy thứ nhất và thứ nhì thì những sách vở văn học và sử học đều có nói đến, tuy chưa có tài liệu nào dành cho họ một ngôi vị xứng đáng với công trình to tát mà họ đã đóng góp cho nền chính trị và học thuật nước nhà. Nhưng dù sao thì phương danh của họ cũng đã được lựa chọn để đặt cho hai ngôi trường trung học lớn và có tiếng ở miền Nam Việt Nam: trường Petrus Trương Vĩnh Ký, ở ngay tại thủ đô Sài Gòn của Miền Nam tự do, và trường trung học Phan Thanh Giản ngay tại thủ đô của Miền Tây nước Việt. Nhưng về vị thầy thứ ba là cụ Trần Văn Hương thì tôi chưa thấy có một công trình biên khảo nào đáng kể để được xem như là một nỗ lực nhằm tôn vinh một người chí sĩ nổi tiếng của miền Nam Việt Nam cho xứng đáng với đức độ và sĩ khí của Người. Do vậy mà trong thâm tâm tôi vẫn thầm nguyện ước phải làm một cái gì để chính bản thân tôi và nhiều người Việt Nam khác, nhứt là thế hệ trẻ, có thể biết đến, kính phục và thương mến một con người đạo đức và rất yêu thương dân chúng và quê hương xứ sở.
Ước nguyện nầy đã thúc đẩy tôi cùng một số bạn hữu tổ chức những buổi lễ tưởng niệm cố Tổng Thống Trần Văn Hương, từ hồi tháng 3 năm 1996 tại San Jose với sự tham dự đông đủ của những người ngưỡng mộ ông. Chúng tôi hy vọng buổi lễ tưởng niệm nầy sẽ là bước khởi đầu cho những công trình quan trọng hơn và ý nghĩa hơn ở nhiều nơi.
Rồi hôm nay, sau một phần tư thế kỷ ngày từ trần của cụ Hương, ở tại đây, nơi được xem là thủ đô của người tỵ nạn, chúng tôi muốn khởi đầu lễ tưởng niệm vị Tổng Thống hợp hiến cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà để nhắc nhở các thế hệ sau về tấm gương của một nhà ái quốc đạo đức, một chính trị gia trong sạch, liêm chính, hết lòng vì dân vì nước, đã phải sống những ngày cuối cùng của cuộc đời trong cảnhï nghèo túng, đạm bạc, cũng như cụ Phan Thanh Giản trước kia. Cụ Hương cũng đã tiết kiệm được nhiều xương máu của người dân Nam, đã ở lại với người dân, sống khổ sở tũi nhục trước sự hống hách của những can binh cộng sản không tình người, vô đạo đức, vô liêm sĩ, chỉ biết dùng sức mạnh võ lực để kiềm hảm, áp bức người dân Nam hiền lành. Chúng tôi mong nhân dịp này tạo cơ hội để hằng năm những người quốc gia chân chính hãy cùng tưởng niệm vị giáo sư lỗi lạc có một không hai của trường Nguyễn Đình Chiểu, nhà chí sĩ khí tiết cao cả của miền Nam Việt Nam, vị Tổng Thống hợp hiến cuối cùng được nhiều người mến phục của Việt Nam Cộng Hoà. Bên cạnh cụ Hương còn có những vị tướng lãnh đã nêu cao nghĩa khí của người chiến sĩ bất khuất, thà chết chứ không chịu nhục trước cái chiến thắng không chính đáng, không danh dự của bọn người nô lệ mù quáng cho chủ nghĩa cộng sản chật hẹp, lỗi thời. Các vị tướng lãnh Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Hai, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, và những sĩ quan, binh sĩ khác đã tuẩn tiết ngày Cộng Sản xăm chiếm Miền Nam cũng đều đáng được tôn thờ, tưởng niệm bên cạnh vị Tổng Thống bất khuất của Việt Nam Cộng Hoà.
* * *
Ông Trần Văn Hương sanh năm 1902 tại Vĩnh Long trong một gia đình nông dân nghèo khó. Cha làm ruộng, mẹ đi bán cháo ở ngoài chợ. Nhà nghèo, thuở nhỏ ông phải đi làm để kiếm tiền đi học. Nhờ học giỏi nên ông được học bổng của chính phủ. Sau khi xong Trung Học Pháp, ông tiếp tục học Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội. Năm 1926, sau khi tốt nghiệp, ông được bổ về dạy tại Trường Trung Học Collège Le Myre de Vilers, Mỹ Tho. Ít lâu sau, ông được bổ nhiệm làm Thanh Tra Học Chánh (inspecteur provincial) tỉnh Tây Ninh. Chính tại đây, nhà giáo Trần Văn Hương đã vượt qua cương vị của một nhà mô phạm để bắt đầu dấn thân vào con đường chính trị. Thực ra, khi quốc gia hữu sự thì mọi người, dù kẻ thất phu cũng còn có trách nhiệm, huống chi là người có tâm huyết, chí khí như giáo sư Trần Văn Hương. Cho nên, năm 1945, sau khi Thế Chiến thứ hai chấm dứt, ông mạnh dạn bỏ nghề dạy học để tham gia phong trào toàn quốc kháng chiến chống Pháp, đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch Uûy Ban Hành Kháng tỉnh Tây Ninh. Khi Pháp tái chiếm tỉnh nầy, ông đưa bộ đội rút về Đồng Tháp Mười để tiếp tục kháng chiến.
Nhưng vào khoảng 1946-47, khi biết phong trào nầy đã bị Cộng Sản thao túng, ông Hương giải tán bộ đội, trở về thành để làm “cu-li viết”, như ông thường nói, hầu sống đạm bạc qua ngày. Tư cách, uy tín cũng như tài năng của ông được nhiều người biết đến Cho nên khi Ngô Đình Diệm tìm một người có đủ tài năng và đức độ làm đô trưởng Sài Gòn thì Trần Văn Hương đã được đề nghị trước hết.
Năm 1955, ông nhận lời mời của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra làm Đô Trưởng Saigon lần thứ nhất. Đây là lần đầu tiên người dân miền Nam Việt Nam được thấy một chính trị gia cỡi xe đạp đi nhậm chức đô trưởng. Nhưng mấy năm sau, khi thấy chánh quyền Đệ Nhất Cộng Hòa bắt đầu có nhiều sai lầm trong chánh sách, ông Hương cùng 17 nhân sĩ khác trong nhóm Tự Do Tiến Bộ (thường gọi là nhóm Caravelle) ký tên vào bản thỉnh nguyện và tổ chức họp báo tại khách sạn Caravelle để yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm thay đổi đu?ng lối cai trị để cứu nguy dân tộc. Kết quả là ông Hương và 17 nhân sĩ bị vào tù, và là thời gian ông có dịp làm bài thơ bất hủ: Ngồi buồn gãi (dái) ngứa tăng tăng . . .
Năm 1964, ông được mời làm Đô Trưởng lần thứ hai.
Không bao lâu sau, ông lại ?ược Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu mời thành lập chánh phủ và đây là lần đầu tiên ông làm Thủ Tướng Chính Phủ. Khi tướng Nguyễn Khánh làm chỉnh lý, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu bị truất phế, Thủ Tướng Trần Văn Hương bị bắt và bị quản thúc một thời gian ở Vũng Tàu.
Năm 1968, sau Tết Mậu Thân, trong cảnh hỗn loạn hiểm nguy, ông Hương đã can đảm nhận lời mời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra làm Thủ Tướng lần thứ hai. Sau một năm chấp chánh, tình hình chánh trị, quân sự ở miền Nam Việt Nam đã có phần được ổn định lại.
Năm 1971, ông đắc cử Phó Tổng Thống trong liên danh với Nguyễn Văn Thiệu. Ở ghế ngồi chơi xơi nước, ông chỉ làm chủ tịch một số hội đồng quốc gia trong đó có Hội Đồng Văn Hoá Giáo Dục. Tưởng như vậy cũng đã yên thân lúc tuổi già, nào ngờ, vào ngày 20 tháng tư năm 1975, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, lúc vận mệnh quốc gia đi đến hồi thập tử nhất sinh, ông Trần Văn Hương lại mạnh dạn đứng ra nhận lấy trách nhiệm trước quốc dân đồng bào khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ông Trần Văn Hương lên làm tổng thống chỉ vỏn vẹn có bảy ngày, vừa đủ để gặp gỡ Đại Tướng Dương Văn Minh, và điều trần trước lưỡng viện Quốc Hội về tình trạng khẩn trương của đất nước, để tìm một giải pháp chính trị trong tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam. Trước áp lực mạnh mẽ của Mỹ, với sự đồng ý của lưỡng viện Quốc Hội, Tổng Thống Trần Văn Hương đã trao quyền lãnh đạo lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh trong một buổi lễ tại Dinh Độc Lập chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, khoảng 36 tiếng đồng hồ trước khi quân Cộng Sản tiến vào Saigon.
Ông Trần Văn Hương là vị tổng thống dân cử cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Trước khi Saigon mất, đại sứ Hoa Kỳ có đến mời ông ra đi để có thể bảo đảm cho ông một cuộc sống yên ấm cho đến trăm tuổi già. Ông nhứt đinh ở lại quê hương, chia xẻ nỗi đau và cảnh khốn cùng của dân quân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1977, chánh quyền Cộng Sản đem giấy tờ trao trả quyền công dân lại cho ông. Ông đã khẳng khái khước từ. Ông dõng dạc tuyên bố với chánh quyền Cộng Sản rằng ông sẽ là người sau cùng nhận lãnh sự trao trả đó khi nào tất cả các dân quân cán chánh đang bị giam cầm đều được trao trả quyền công dân.
Ông đã sống hết sức thanh bần trong những ngày còn lại của ông. Tuy rất nghèo nàn, thiếu thốn, ông vẫn muốn sống, để sống hơn Hồ Chí Minh một tuổi thôi.
Ông đã được thỏa mãn với ước nguyện của ông. Ông mất hồi 4 giờ chiều ngày 27 tháng 1 năm 1982, tức ngày mùng ba Tết năm Nhâm Tuất, hưởng thọ 80 tuổi.
* * *
Ông Trần Văn Hương là một nhà giáo và cũng là một nhà nho với tất cả phong độ của một kẻ sĩ thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh mặc dù ông theo Tây học từ thuở nhỏ. Theo quan niệm nhà nho, tiến vi quan, thối vi sư, tùy theo thời cơ mà ra làm quan giúp vua trị nước hay là đi dạy học, truyền bá đạo lý thánh hiền. Tu, Tề, Trị, Bình, là con đuờng mà kẻ sĩ phải theo trong tiến trình hoàn thành trách nhiệm mà đất trời giao phó. Cuộc đời đi dạy học và chấp chánh của ông cho thấy ông đã đi đúng con đường mà ngày xưa Khổng Tử đã đi.
Lớn lên trong hoàn cảnh loạn ly, Khổng Tử muốn đem đạo đức luân lý cải thiện con người và xã hội. Hoài bão đem đạo thánh hiền để cứu đời, đem vương đạo để cai trị, làm cho quốc gia có trật tự và hưng thịnh, cho thiên hạ được thái bình, là hoài bão luôn được Khổng Tử ấp ủ trong lòng. Do đó, sau một thời gian dạy học, Khổng Tử lại vượt ra cuộc đời của nhà mô phạm để chấp chánh.
Ngày kia, khi đến nước Sái, thấy có hai người cày ruộng. Khổng Tử sai Tử Lộ đến hỏi thăm đường. Người thứ nhứt tên là Tràng Thư nói với Tử Lộ: “Ông ấy (tức Khổng Tử) chu du đã lâu để dạy đạo cho đời, hẳn phải biết đường rồi còn hỏi chi nữa.” Người thứ hai là Kiệt Nịch lại bảo: “Đời loạn đã lâu, làm sao mà trị được. Anh đi theo Khổng Khâu đã lâu làm gì để bị người đời xa lánh. Sao anh không theo ta để chính mình xa lánh cuộc đời có phải hơn không!”
Nghe vậy , Khổng Tử bèn than: “Người mà không sống chung với loài người thì sống với ai? Nếu thiên hạ đã đạt được đạo rồi thì Khổng Khâu nầy đâu cần phải dấn thân vào đời đổi loạn ra trị làm gì nữa!”
Thương thay cho những người muốn dấn thân giúp đời như Khổng Tử! Tội nghiệp thay cho thân phận nhà giáo muốn đem đạo đức vào địa hạt chính trị để cho vương đạo được phổ cập trong thế giới loài người!
* * *
Ông Trần Văn Hương khi nhận lời chấp chánh chắc cũng nghĩ như Khổng Tử là đem tất cả thành tâm thiện chí của mình để mong cải thiện đường lối chánh trị, đem lại trật tự cho xã hội đang hồi loạn ly, đem yên ổn thanh bình cho dân chúng. Vốn là nhà giáo, thấm nhuần tư tưởng Khổng Nho, ông muốn đem đạo đức vào địa hạt chánh trị để cho vương đạo được sáng tỏ.
Ông hành sử như vậy vì ông thấy mình có trách nhiệm phải làm chớ không phải vì bổng lộc, danh vọng hay quyền lợi cho cá nhân hay gia đình ông. Thanh bạch, liêm khiết là những đức tánh không ai phủ nhận được nơi ông Trần Văn Hương. Dù giữ chức vụ cao cấp trong chánh quyền, cuộc sống của ông lúc nào cũng đạm bạc, khiêm tốn, ngay cả quần áo ông cũng không có một bộ cho đáng giá. Nói về tư cách của người lãnh đạo, nhà nho bảo là khi quốc gia hữu sự, nhân dân khốn khổ mà mình làm bậc cha mẹ dân lại được giàu sang sung túc là một điều sỉ nhục. Ông Trần Văn Hương đã theo đúng tinh thần nho giáo ấy khi ông lãnh đạo quốc gia dân tộc.
Nói đến ông Trần Văn Hương là phải nói đến con người cương trực, khẳng khái của ông. Những kẻ hay dùng tiền bạc hay một sức mạnh nào khác tạo áp lực để mưu cầu lợi riêng cho cá nhân hay đoàn thể chắc chắn không đạt được kết quả gì trước cái ngay thẳng gan lì của “Ông già gân”. Dù bị chống đối, bị áp lực đủ trò, ông vẫn một mực đặt tôn giáo và chánh trị ra ngoài học đường, thượng tôn luật pháp để vãn hồi an ninh trật tự cho xã hội. Tinh thần bất khuất của kẻ sĩ đã khiến ông phải mạnh dạn đứng lên phản kháng khi gặp phải diều bất bình, bất lợi cho quốc gia dân tộc, dù có phải nguy hại đến an ninh cá nhân.
Hai lần được mời làm đô trưởng, hai lần được mời làm thủ tướng, một lần được mời đứng chung liên danh ứng cử Thượng Viện, và một lần được mời đứng chung liên danh ứng cử tổng thống, khả năng và nhân cách của ông Trần Văn Hương đã được người đương thời biết đến và kính phục. Tuy ông đã không đem lại được thắng lợi và vinh quang cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ông cũng đã để lại cho người dân miền Nam Việt Nam một tấm gương yêu nước, thương dân, trong sạch, liêm khiết và tiết tháo mà người đương thời ít ai sánh bằng. Với tư cách đạo đức trong sáng của một nhà giáo, với khí tiết hùng dũng, bất khuất của một chính trị gia thật sự yêu nước thương dân, ông Trần Văn Hương và những chiến sĩ Quốc Gia chết vì chế độ tự do của Việt Nam Cộng Hoà thật vô cùng xứng đáng để ngày nay chúng ta tưởng niệm vậy.
No comments:
Post a Comment