Nhà Báo Việt Thường

Nhà Báo Việt Thường

Tìm kiếm bài Blog than huu cua Nha Bao Việt Thường xin gõ chữ vào đây

Wednesday, June 30, 2010

DLHTN- XÉT LẠI VẤN ĐỀ CHA LÝ CHỐNG CỘNG

XÉT LẠI VẤN ĐỀ CHA LÝ CHỐNG CỘNG

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Đề cập đến vấn đề này, cầm chắc cái là bọn Việt Tân, dân chủ cuội, và bè lũ chống cộng bịp sẽ gầm gừ, tru tréo lên inh ỏi, bởi vì người viết đã dám đụng đến thần tượng. Còn người hiểu biết, tôi tin rằng họ sẽ đồng tình, vì đây là một việc làm nên làm. Kẻ chửi bới không lạ gì, bởi vì thần tượng hoặc thánh nữ, sư tổ chúng đã đặt lên bàn thờ rồi thì đệ tử đứa nào dám hạ xuống? Bọn tôn thờ thần tượng có hiểu rằng người viết cũng đã từng thờ tượng thần như chúng? Ngay từ khi Lm Nguyễn Văn Lý vừa trương lên tấm bảng “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết”, kẻ hèn này đã đưa lên nhiều trang Net 4 bài viết để ủng hộ cuộc đấu tranh của ngài. Sự thể nói lên rằng người viết cũng đã từng coi cha Lý là thần tượng. Thế nhưng càng về sau, nhiều việc cha Lý làm, nhiều lời cha Lý tuyên bố cho thấy ngài có vấn đề. Vấn đề là gì, trong khi người viết chưa hình dung ra được, thì ngẫu nhiên, ông Võ Đình Chương đã nói huỵch toẹt: … Cha Lý là nạn nhân của những con buôn chính trị mà thôi.” (Võ Đình Chương: Thông Cáo Báo Chí ngày 20-4-2010. Xin xem Attached file). Đấy là người đồng chí của cha Lý nói, chứ chẳng phải ai xa la.

Với bài viết này, dựa trên những chứng liệu khả tín đã được phổ biến, chúng tôi muốn làm công việc xét nghiệm lại những suy nghĩ của mình trước đây về Lm Nguyễn Văn Lý. Việc làm này nếu được coi là một thiện ý thì đã là điều may mắn cho người viết lắm rồi.

Người Ôm Giấc Mộng Buôn Vua

Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng đế là con của Trang Tương Vương nước Tần. Trang Tương Vương lúc còn là hoàng tử Tử Sở bị thất sủng, được gởi sang làm con tin ở nước Triệu. Tử Sở thấy người thiếp của Lã Bất Vi tên là Hạ Cơ xinh đẹp nên đem lòng yêu thích. Lã Bất Vi, một con buôn rất nhiều mánh lới, thuận nhượng vợ để ôm mộng buôn vua kiếm lời. Khi Hạ Cơ lấy Tử Sở thì đã có mang với Lã Bất Vi. Hạ Cơ đẻ con đặt tên là Chính. Sau này Chính lên ngôi hoàng đế nước Tần là Tần Thủy Hoàng. Như vậy về danh nghĩa, Thủy Hoàng đế là con Trang Tương Vương, nhưng thực tế lại là con ruột của Lã Bất Vi. Tử Sở lên làm vua nước Tần, cho Lã Bất Vi làm Thừa Tướng, phong là Văn Tín Hầu, ăn thuế mười vạn hộ ở Hà Nam, Lạc Dương. Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất, thái tử Chính lên nối ngôi hiệu là Thủy Hoàng Đế, phong Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ. Người đời sau gọi Lã Bất Vi là kẻ buôn vua.

Lm Nguyễn Văn Lý đang là người ôm mộng buôn vua giống như Lã Bất Vi. Trong Thông Cáo Báo Chí thượng dẫn, ông Võ Đình Chương viết về một cuộc điện đàm giữa ông với Lm Lý như sau: “Tôi đề cập đến Ban Đại Diện của Đảng Thăng Tiến (Anh Nguyễn Phong và Anh Nguyễn Bình Thành ). Cha Lý trả lời rằng (nguyên văn): Những người bị bắt đó là người ta xung kích ra như vậy để xem coi thử bên kia họ đối xử như thế nào, để từ đó mà ứng xử, chứ những người này là những cái …. cái vật tế thần! Họ là những cái người hy sinh thế thôi, không phải là cái người điều hành thực sư Còn cái người điều hành thực sự thì người ta lại thông giỏi hơn nhiều … Cần cái người sau này để làm việc chứ lệ, chứ mấy anh đó thì có gì đâu …”

Trước hết cần minh xác một điều. Bởi vì ông Võ Đình Chương đã viết rõ trong Thông Cáo rằng những điều cha Lý nói đều đã được ông thu âm làm tài liệu, từ hơn hai tháng nay, người ta không thấy cha Lý lên tiếng bác bỏ hoặc giải thích những tố cáo của ông Chương, như vậy Thông Cáo Báo Chí của ông Võ Đình Chương là một tài liệu hoàn toàn xác thực và đáng tin cậy. Đem Thông Cáo Báo Chí, và đặc biệt là trích đoạn trên đây qui chiếu vào các hoạt động đấu tranh của Lm Nguyễn Văn Lý cho thấy, ngài là một chính khách nhiều tham vọng, thủ đoạn, và tàn ác.

Trước hết cha Lý là một chính khách. Thật vậy, khi dựng lên tấm bảng “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết”, cha Lý là một linh mục hiền hậu và nhân ái. Ngài chỉ là một cá nhân đứng lên hô hào toàn dân đấu tranh đòi quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do công dân khác. Thế Nhưng chẳng bao lâu, ngài biến thành một chánh khách từ lúc nào. Từ mục tiêu đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhâm quyền, ngài chuyển sang tranh đấu chính trị đảng phải. Chính thức thì ngài chỉ thành lập và trực tiếp điều hành Khối 8406 như trong bản tiểu sử của ngài do Ls Hoàng Duy Hùng viết, hoặc như ngài trả lời phỏng vấn nhà báo Mạc Việt Hồng ngày 12-6-2010: “Thực sự, tôi có tuyên bố với cơ quan an ninh rằng, quý vị muốn cho tôi ra khỏi trại giam chữa bệnh hay không thì tùy quý vị, nhưng khi tôi ra ngoài, tôi sẽ tiếp tục điều hành khối 8406 ngay.” Cũng nên nói cho rõ là Lm Lý không minh danh thành lập đảng chính trị, nhưng ngài đứng mũi chịu sào và là linh hồn của các đảng Thăng Tiến, đảng Vì Dân, và Liên Đảng Lạc Hồng.

Một công dân đứng lên lập đảng tranh đấu chống cộng là việc làm chính đáng. Nhưng một linh mục thành lập tổ chức cho mục đích làm chính trị sẽ rơi vào cái thế bất lợi ít nữa là về hai phương diện. Thứ nhất là vi phạm luật Giáo Hội nên sẽ không được GH ủng hộ. Thứ hai là động lực chính trị thúc đẩy khó đúng đường. Chính khách hoạt động cho mục tiêu nhắm tới là quyền lợi. Trong khi linh mục làm việc do lương tâm thúc đẩy một cách vô vị lợi. Hai động cơ khác nhau, từ đó khẳng định rằng ông linh mục đấu tranh để phục vụ cho những mục tiêu chính trị đảng phái sẽ hỏng việc. Không những thế, Lm Nguyễn Văn Lý còn cho thấy ở ngài có nhiều đặc điểm của một chính khách khá dầy dạn:

- Tham vọng - Cha Lý sử dụng đảng Thăng Tiến như một con bài cho những mưu tính thầm kín nào đó trong lúc ban lãnh đạo đảng đang ở trong tù. Ngài còn để lộ ra một mưu đồ lớn là tự mình sẽ chỉ định những người lãnh đạo đất nước sau này: “Còn cái người điều hành thực sự thì người ta lại thông giỏi hơn nhiều … Cần cái người sau này để làm việc chứ lệ, chứ mấy anh đó thì có gì đâu…” Tóm lại, cha Lý có tham vọng trở thành một siêu lãnh tụ, hay như một thái thượng hoàng thời phong kiến, nghĩa là người có quyền tự ý lập hay phế vua, thời nay là những người nắm vận mệnh đất nước. Tham vọng buôn vua của cha Lý hiện rõ ở điểm này.

- Độc ác - cha Lý đẩy Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành, và Hoàng Thị Anh Đào là những người vừa là con chiên, vừa là đồng chí của ngài vào tay VGCS để đo lường phản ứng của chúng. Những nạn nhân này đều là người có học, có người đi làm lương khá cao, dám bỏ tất cả để bán mạng cho cha Lý. Họ đã bị dư luận bỏ quên, còn cha Lý thì không được một lần nhắc tới, nên gia đình hiện nay thật khốn đốn. Họ đúng là những con dê tế thần như cha Lý nói. Trong khi đó ngài dành tất cả ưu ái cho bọn dân chủ cuội, tay chân của ngài nhởn nhơ bên ngoài vòng kềm tỏa của công an.

- Thủ đoạn - Cha Lý từng trực tiếp nói với nhà thơ Chinh Nguyên: “Tôi sẽ làm mọi cách để họ bắt tôi. Đó là tôi đã chứng minh cho thế giới biết chế độ độc tài CS ở VN không có tự do tôn giáo và nhân quyền….. CS nhất định phải bắt tôi.” (Xem cuộc đời đấu tranh cho tôn giáo và dân chủ nhân quyền - Tập I trang 5-6). Thủ đoạn này của Lm Lý là cao kiến, không có gì đáng phê phán. Cha Lý dùng thủ đoạn để vô tù, nhưng ngài cũng đã dùng thủ đoạn để ra khỏi nhà tù. Đây mới là chuyện đáng nói, bởi vì cái thủ đoạn cha Lý sử dụng để ra tù là một hành vi đầu hàng hết sức ô nhục. Một linh mục đấu tranh cho một lý tưởng cao cả không thể hành xử như vậy đối với kẻ thù của tôn giáo là CS. Một linh mục phải sống như một linh mục, và nếu chết cũng phải chết như một linh mục. Linh mục không được phép khuất phục những kẻ gian ác làm hại xã hội.

Trong thời gian nằm tù lần trước, Lm Lý đã viết hai lá tâm thư. Thư thứ nhất ngày 17-4-2003 gởi Hội Đồng Giám Mục VN để tỏ lòng ăn năn xám hối về việc tranh đấu đã làm bận tâm đến các giám mục. Thư thứ hai viết ngày 27-6-2003 gởi Quốc Hội Hoa Kỳ để xin hủy bỏ Dự Luật Nhân Quyền và Dự Luật Tự Do Tôn Giáo cho VN. Cha Lý cho rằng với hai Dự Luật đó, QH Mỹ đã xâm phạm chủ quyền của VN. Theo Lm Nguyễn Văn Lý, VN đã đạt được 4 thành tựu cơ bản là độc lập thống nhất, công bằng xã hội, không nô lệ nước ngoài, và an ninh ổn định vững chắc. VN đang nỗ lực thực hiện cải cách trên tất cả mọi mặt, đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo. Cha Lý nhấn mạnh: nhà nước VN không đàn áp tôn giáo (xin xem attached file Tâm Thư).

Ngày 19-10-2001, cha Lý bị kết án 15 năm tù. Sau khi viết hai lá thư đầu hàng trên, ngài được VGCS thả trước thời hạn vì lý do học tập tốt, cải tạo tốt. Ngài ra tù tháng 2-2005. Qua lá thư này, đặc biệt với câu “nhà nước VN không đàn áp tôn giáo”, cha Lý đã tự phủ nhận chính mình và tất cả công cuộc đấu tranh của mình. Ngài không còn tư cách gì và mặt mũi nào để đấu tranh nữa. Nếu có ai cho rằng cha Lý bắt chước Hàn Tín dùng hạ sách này để nín thở qua sông, thì cũng nên hiểu rằng Hàn Tín chui háng anh chàng bán thịt cốt được sống để kiếm công danh. Không lý một linh mục công giáo cũng dễ dàng hàng phục những kẻ gian ác hầu được sống mà mưu cầu công danh như Hàn Tín?

Con Đường Vô Định

Cha Lý đấu tranh chống cộng với cách thức có thể nói là bá đạo như trên đáng được kể là người có chút bản lãnh chính trị. Nhưng với CS mà bấy nhiêu bản lãnh thôi chưa đủ. Cần rất nhiều hơn nữa. CS giết người không run tay. Cha Lý phải là người một ngày không nhìn thấy máu ăn cơm không ngon. CS lưu manh thủ đoạn. Cha Lý phải thủ đoạn lưu manh hơn chúng gấp bội v.v. Tóm lại mặt nào cha Lý cũng phải trên cơ CS thì mới thắng được chúng. Còn nếu không chủ thắng CS bằng con đường bá đạo, thì một linh mục đấu tranh cho công lý và công bằng xã hội có lẽ nên tìm con đường khác mà đi thì tốt hơn. Bởi vì con đường nửa chừng “xuân” là một con đường vô định. Để minh chứng rằng đường lối đấu tranh của Lm Nguyễn Văn Lý là con đường vô định, chúng tôi xin nêu ra tấm gương linh mục Jerzy Popieluszko để quí bạn đọc có cơ sở đối chiếu. Lịch sử Balan chứng minh đường lối chống cộng của cha Jerzy đã đem lại thành quả tốt đẹp.

Trên đời này, đối với một người đàn bà, không có đau khổ nào to lớn bằng sự đau khổ bà phải chịu khi nhìn thấy tận mắt đứa con của mình bị giết chết. Cũng trên đời này, đối với một bà mẹ công giáo, không có gì vui sướng nào bằng sự vui sướng khi bà còn sống được tham dự buổi lễ phong thánh cho người con yêu quí của mình.

Trong thời đại chúng ta, một người đàn bà có lẽ duy nhất từng trải qua cả nỗi bất hạnh lẫn niềm vui vô cùng lớn lao kia là cụ bà Marianna, thân mẫu linh mục Popieluszko. Cha Jerzy Popieluszko được Tòa Thánh tôn phong chân phước ngày 6-6-2010 vừa qua. Buổi lễ tôn phong cử hành tại công trường Pilsudski, Warsaw, thủ đô của Balan, với khoảng 150.000 ngàn người tham dự, cùng với sự hiện diện của bà mẹ của Thánh Nhân là cụ bà Marianna, chị, và các anh em trai của ngài.

Jerzy là một linh mục người Balan sanh ngày 14-9-1947. Tháng 5-1972 thanh niên Jerzy chịu chức linh mục. Sau đó ngài đảm trách nhiều công việc mục vụ khác nhau và sau cùng là nhiệm vụ tuyên úy cho Công Đoàn Đoàn Kết, một công đoàn độc lập tại Ba Lan. Cuối năm 1981, cuộc đấu tranh đòi cải cách chính trị, xã hội và chống độc tài của Công Đoàn dâng cao, nhà cầm quyền ban bố lệnh thiết quân luật và đàn áp Công Đoàn. Cha Jerzy luôn là niềm an ủi cho những công nhân bị bắt bớ và gia đình của họ. Nói chung, ngài là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi công nhân. Trước tình trạng cuộc đàn áp càng ngày càng khốc liệt, hàng chục người bị giết chết hoặc bị thủ tiêu. Hàng ngàn người bị tù đầy hoặc bị khống chế. Cha Jerzy đi đến tận nơi công nhân đình công để dâng thánh lễ và giảng thuyết. Ngài nẩy sinh ra sáng kiến mỗi tháng dâng một thánh lễ cầu cho đất nước. Các thánh lễ này qui tụ hàng chục ngàn công nhân tham dự. Trong các bài giảng, ngoài khía cạnh thiêng liêng, ngài còn lên tiếng chống đối những chính sách bất công của CS. Ngài khuyến khích và thúc dục mọi người can đảm đứng lên đấu tranh cho công lý và nhân quyền. Đường lối đấu tranh của ngài là “lấy việc thiện để thắng sự gian tà”. Lm Popieluszko không tham dự vào việc lãnh đạo hay điều hành Công Đoàn. Việc đó đã có công nhân lo. Nhưng các công nhân tin rằng cha Jerzy mới chính là linh hồn của Công Đoàn Đoàn Kết. Con người ta sẽ không thể sống nếu không có linh hồn. Công Đoàn cũng thế, nếu không có Lm Popieluszko, nó sẽ không tồn tại.

Chính vì cha Popieluszko là linh hồn của Công Đoàn Đoàn Kết, nói khác đi là của phong trào đấu tranh, nên CS Balan nhất định phải tiêu diệt ngài. Chúng tưởng rằng giết chết ngài, Công Đoàn Đoàn Kết sẽ chết theo. Nhưng chúng đã lầm vì linh hồn bất tử, không thể giết chết được. Cha Jerzy trở thành cái gai trong con mắt bon CS Balan. Để loại trừ đi cái gai này, chúng tìm mọi cách, mọi thủ thuật để trừ khử ngài, từ dụ dỗ cho đi du học, dùng bề trên áp lực, đến các hình thức sách nhiễu, vu cáo, thóa mạ, ngụy tạo chứng cớ để truy tố, kết tội, khám xét, tra hỏi, bắt bớ, đánh đập, ngụy tạo đụng xe để giết chết nhưng ngài thoát nạn v.v. Tất cả mọi biện pháp không làm được cho cha Jerzy chùn bước, vì ngài cho rằng bổn phận của linh mục là phải công bố và làm chứng cho sự thật. Sự thật đó là nhân dân Balan bị CS đàn áp. Họ không có tự do.

Cuối cùng mật vụ Balan cũng làm được cho cha Jerzy phải im tiếng được bằng cách chúng chận xe bắt cóc ngài. Sau khi đánh đập cha Jerzy thật tàn nhẫn đến ngất xỉu, chúng liệng xác ngài xuống sông, 11 ngày sau người ta mới vớt được xác ngài. Một điều mà bọn CS Balan không thể ngờ được là sau cái chết của cha Popieluszko, tinh thần đấu tranh của Công Đoàn Đoàn Kết càng ngày càng lên cao, và cuối cùng đã đem lại cuộc giải phóng đất ngước Balan khỏi bàn tay của CS. 25 năm sau khi bị thủ tiêu, ngày 6-6-2010, cha Jerzy Popieluszko được Tòa Thánh tôn vinh lên bậc Chân Phước, bước đầu của việc ngài được phong thánh.

Như đã thấy, trong công cuộc cách mạng giải phóng Balan khỏi ách độc tài CS, Công Đoàn Đoàn kết có cái linh hồn là Lm Jerzy Popieluszko. Đó là điểm cần nhấn mạnh. Bọn VGCS ý thức rất rõ điều này. Do đó, chúng tiêu diệt tức khắc và thẳng tay bất cứ vị lãnh đạo tinh thần nào có khả năng trở thành linh hồn cho cuộc đấu tranh. Lm Popieluszko chỉ làm nhiệm vụ tuyên úy. Vũ khí của ngài là những bài giảng và chăm lo săn sóc đời sống tinh thần của công nhân. Đường lối của ngài là dấn thân phục vụ và quyết tâm thắng cái ác bằng cái thiện với tinh thần vượt trên mọi sợ hãi. Kết quả của cuộc chiến đấu không ồn ào của Lm Popieluszko là nước Balan được giải phóng, và ngài được Giáo Hội công nhận là một vị Thánh Tử Đạo.

Điều thiệt thòi cho Lm Nguyễn Văn Lý là ngài không có được môi trường thuận lợi để đấu tranh như Lm Popieluszko. Trong khi cha Popieluszko có Công Đoàn Đoàn Kết thì cha Lý phải tự tao ra môi trường là Khối 8406 và các đảng phái. Nhưng như chúng tôi đã phân tích trên, việc làm này không những không thích hợp cho một linh mục, mà còn có thể gây tai hại nữa như chúng ta đã thấy tại VN và ở nhiều nước khác. Cha Lý ở trong tù, hoặc chỉ ngồi một chỗ nên bị bao vây bởi vòng trong vòng ngoài là những tên công an trá hình và lũ dân chủ cuội. Ở hải ngoại ngài bị bọn Việt Tân và chống cộng bịp thổi ống đu đủ nên cứ tưởng mình là thần tượng, là lãnh tụ. Thực ra ngài đã bị chúng lợi dụng, đúng như ông Võ Đình Chương nói. Vì thế người ta không ngạc nhiên khi thấy đường lối đấu tranh của ngài không khác gì con đường hòa hợp hòa giải của Việt Tân. Cách thức đấu tranh của ngài còn lại đến lúc này chỉ là tuyên truyền đánh bóng cá nhân. Nó có những đặc điểm như sau:

- Hướng ngoại. Cuộc đấu tranh đúng lý chủ yếu phải là vận động quần chúng trong nước như Lm Popieluszko đã làm mới phải. Trọng tâm của vấn đề lật đổ CS là vận động đồng bào trong nước, chứ không phải chủ yếu tranh thủ dư luận người tỵ nạn và của thế giới bên ngoài. Thưc sự không mấy người dân trong nước biết cha Lý, cha Lợi là ai, bọn Thanh Giang, Trần Khuê, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Khắc Toàn v.v. là thằng chó nào. Thế nhưng cha Lý và có thể nói là tất cả mọi nhân vật tranh đấu cuội trong nước đều hướng tiếng nói ra bên ngoài, nghĩa là chỉ chống cộng sản ở chỗ không có CS. Một thí dụ cụ thể là tờ báo bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận chủ yếu là phát hành trên internet cho người tỵ nạn ở hải ngoại đọc. Trong nước có ai biết và đọc nó đâu. Đường lối chống cộng hướng ngoại chỉ có tác dụng gây xúc động tâm lý người tỵ nạn hầu đánh bóng các thần tượng, thánh nữ ở trong nước, để từ đó, bọn con buôn chính trị lừa bịp những người ngu ngơ hầu dễ dàng móc túi họ. Chẳng có quốc tế nào còn quan tâm đến vấn đề CS tại VN nữa. Lý do là vì, theo cách đánh giá của người ngoại quốc, VN đã ổn định rồi. Ông Michalak, đại sứ Mỹ, không từng ca tụng VN đạt được tiến bộ về mọi mặt đấy sao!

- Nói nhiều. Nói nhiều nên hố nhiều. Trong Lời Kêu Gọi số 7 ngày 28-1-2001, Cha Lý công nhận VGCS đã góp công dành độc lập từ tay thực dân Pháp. Sao cha Lý giống Việt Tân thế. Báo của Việt Tân viết: Hồ Chí Minh là người yêu nước và đảng CSVN có công với Dân Tộc. Chẳng trách cha Lý luôn nạt những người bên cạnh hay phê phán Việt Tân: Đừng có chụp mũ cho người ta. Về điểm này, có thể nói rằng cha Lý không biết lịch sử. Hiệp Ước Élysées ký kết giữa Quốc Trưởng Bảo Đại và TT Pháp Vincent Auriol ngày 8-3-1949 đã đem lại độc lập cho VN. Nền độc lập này tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng là một bước khởi đầu tốt đẹp. Người đuổi tên lính Pháp cuối cùng ra khỏi VN là TT Ngô Đình Diệm. Đảng VGCS là một chi bộ của Đệ III QTCS, chúng vâng lênh QTCS chiếm VN cho đế quốc Liên Sô chứ không hề đem độc lập lại cho Dân Tộc VN. Cha Lý còn nói rằng nếu thay đổi mà mất ổn đinh thì thà rằng cứ để cho đảng CS lãnh đạo còn hơn. Ngài cứ đọc lịch sử xem, có cuộc cách mạng nào không lâm vào tình trạng ít nhiều mất kiểm soát lúc ban đầu. Cha Lý luôn luôn đề cao đường lối tranh đấu bất bạo động. Đấu tranh bất bạo động luôn là điều đáng mơ ước. Nhưng giả sử rằng, trong một cuộc biểu tình tự phát mà sự phẫn nộ của quần chúng không còn kiểm soát nổi, đã trở thành cái gọi là bạo lực cách mạng, họ đình công, bãi thị, phá công ốc, giết cán bộ v.v. cha Lý có ra đấy mà ngăn cản quần chúng không, mà ngăn nổi sao? Nếu cuộc bạo động lật đổ được chế độ thì liệu cha Lý có thừa nhận cái thành quả đó không, hay ngài nói: tôi không chấp nhận bởi vì tôi chủ trương tranh đấu bất bạo động? Cho nên nhiều lời thường dễ bị hố. Chúng ta chỉ nên hiểu rằng ngài nói thể để tránh bị công an làm khó dễ. Cũng vô ích. Nếu cần, công an có thể đẻ ra một ngàn lẻ một lý do để còng tay cha Lý. Ngài không thể cãi lại chúng: tôi tranh đấu bất bạo động.


- Hoang tưởng. Thông Cáo Báo Chí của ông Võ Đình Chương có đoạn viết: Trong cuộc điện đàm với Cha Lý, ngài có đọc cho tôi nghe một lá thư của cán bộ đảng CSVN gữi cho Ngài như sau (nguyên văn): “Những người cộng sản càng ngày càng ủng hộ chúng ta. Tôi vừa nhận được lá thư, họ nói rằng: chúng tôi là những người vô thần 90% là đảng viên, nhưng nay nhờ ơn Chúa và nhờ cha, chúng tôi đã từ từ giác ngộ. Chúng tôi luôn luôn sát cánh với 8406 và âm thầm ủng hộ 8406. Chúng tôi là một tập thể đông lắm, hàng vạn người, và chúng tôi đang phải âm thầm như thế. Ngày cha chiến thắng, chúng tôi sẽ công khai xuất hiện và chúc mừng cha …” Khi nghe cha Lý đọc lá thư này, tôi chợt nhớ đến hơn ba năm trước khi chưa bị vô tù, Ngài cũng đã nói với tôi là có sáu Uỷ viên Bộ chính trị CSVN ủng hộ ngài và 8406….

Đọc trích đoạn trên, người có trí khôn bình thường cứ coi như là chuyện Tề Thiên Đại Thánh đi để khỏi phải bận tâm thắc mắc. Người viết chỉ có một trong hai cách giải thích, một là cha Lý bị bệnh hoang tưởng quá nặng, hai là 6 thằng Ủy viên Bộ Chính Trị là 6 thằng điên, không điên thì cũng khùng.


Kết Luận

Ngày 8-6 vừa qua, cha Lý gởi đơn kiện VGCS lên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations Human Rights Council) về các tội chúng vi phạm nhân quyền đối với tù nhân. Sau đó, ngài lên diễn đàn Paltalk cổ động cho vụ kiện cáo của mình. Thế giới không biết CSVN dã man sao? Mà Liên Hiệp Quốc nào xử cho cha Lý. Lại là chuyện cái kiến kiện củ khoai thôi. Chẳng có tác dụng thực tế nào cả. Nhưng khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Mạc Việt Hồng ngày 12-6-2010, cha Lý lại nói rằng (nguyên văn): “ tình hình tự do ngôn luận hiện nay cũng có những tiến bộ nhất định so với trước kia. Việc phát tán hay chuyển giao tài liệu hiện nay được thực hiện thoải mái hơn, công an họ cũng có kiêng dè hơn, ngần ngại hơn. Hay, tự do internet và điện thoại có tiến bộ hơn, anh em ít bị kiểm soát hay cắt điện thoại hơn so với trước kia.” Vấn đề đặt ra là, nếu tình hình VN mỗi ngày mỗi sáng sủa hơn, xã hội mỗi ngày mỗ tự do hơn như cha Lý nhận định, thì hà tất ngài còn phải nhọc công tranh đấu làm chi nữa cho mệt. Chịu khó chờ thêm tí nữa. Một xã hội hoàn chỉnh thế nào rồi cũng nắm trong bàn tay. Như thế cha Lý nên nghe theo lời khuyên của ông Võ Đình Chương: “Con chỉ mong cha yên tâm trị bệnh, như lời cha đã nói với con trong cuộc điện đàm là tòa giám mục nhận lãnh cha về để trị bệnh, chứ không phải về để lãnh đạo Khối 8406.”

Thiển nghĩ, đây là một lời khuyên chân tình, bởi vì ông Chương không muốn nhìn thấy cha Lý là nạn nhân của những con buôn chính trị. Còn nếu như cha Lý nhất quyết tiếp tục con đường đấu tranh, thì ngài nên lấy gương Lm Jerzy Popieluszko mà học hỏi. Biết đâu đấy cha Jerzy có thể đem cơ hội thành công đến cho cha Lý.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Tuesday, June 29, 2010

NB Viet Thuong- Nhận Đinh về Kiến Nghị của 38 tên Lão Thành VGCS

KN-2000 phỏng vấn NB Viet Thuong ngày 27-06-2010
Nhận Đinh về Kiến Nghị của 38 tên Lão Thành VGCS và Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa là gì?


Audio lưu trữ


http://a4.video3.blip.tv/0240003157993/Kynguyen2000-AudioNBVietThuongNhnNhVKienNghiCua38TenVGLaoThanh808.wmv?bri=5.0&brs=81


Hình ảnh sẽ bổ túc

Friday, June 25, 2010

Nam Nhân-Đinh Thạch Bích: Điển hình hội chứng “Thùng Rỗng Kêu To”








Đinh Thạch Bích: Điển hình hội chứng “Thùng Rỗng Kêu To”!!!



Nam Nhân

Lần trước Nam Nhân đã có viết một bài vạch mặt Tường Thắng đã bốc phét trên đài truyền hình SBTN (Sinh Bắc Tử Nam) cùng với Đỗ Phủ.

Tường Thắng là đệ tử ruột của Đinh Thạch Bích, mà chính Đinh Thạch Bích đã từng khoe rằng, cái tên “Tường Thắng” là do Đinh Thạch Bích đặt cho, nó có hàm ý, Tường Thắng sẽ là một “Thằng Tướng” của Đinh Thạch Bích (chắc là đến một ngày đẹp trời nào đó, được Nguyễn Đan Quế cho một chỗ ngồi trong cái gọi là “chính phủ ma cà rồng?!”).

thợ nổ Đinh Thạch Bích Tường Thắng, "Thằng Tướng của thợ nổ DTB

Đinh Thạch Bích nổi tiếng là thợ nổ, tự vẽ cho mình nhiều vòng hào quang, trong đó có chuyện nói láo rằng, đã tốt nghiệp trường lục quân Trần Quốc Tuấn, thời kỳ 1946. Cũng phét lác là thuở nhỏ đã học ở Hà nội, và năm 1945 có mặt tại quảng trường Ba Đình, đứng ở hàng đầu trong đoàn biểu tình, ngày 2/9, khi việt gian Hồ chí Minh đọc cái gọi là “Tuyên ngôn Độc lập”???

Nhưng một điều kỳ lạ là, Đinh Thạch Bích, không biết cái phủ toàn quyền Đông Dương nằm ở đâu, cũng như không phân biệt được phủ toàn quyền của thực dân Pháp với tòa Đốc lý của thực dân Pháp tại Hà nội (giống hệt tên Trần Nhu, chí hữu của Nguyễn văn Canh, đồng minh của Đinh Thạch Bích)!!!

Trần Nhu, "học gỉa", là giả chứ không có thiệt

Nam Nhân đã hứa với bạn đọc trong bài viết, về Tường Thắng, là sẽ vạch ra cái tội nổ sảng của Đinh Thạch Bích. Hôm nay xin được phép chọn bài mới nhất của Đinh Thạch Bích, được đưa lên Vietnamexodus vào ngày thứ Ba, 22/6/2010, có tên: “QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN” VIT-GIAN-CNG-SN BỊ RỚT LÁ BÙA “CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC” – TOAN LƯỢM LẠI.

Một số những bài trước đây, Đinh Thạch Bích thường khoe rằng “Ứng khẩu tổng hợp tình hình”, để ra cái điều khả năng tổng hợp của Đinh Thạch Bích như máy tính vậy. Sau chắc suy nghĩ lại, thấy dùng chữ “ứng khẩu” nó vô duyên và nhà quê quá xá. Bởi vì đã gọi là ứng khẩu, thì tự nhiên có sẵn trong đầu tuôn ra; còn ứng khẩu để tổng hợp, thì làm sao có thể xẩy ra được, bởi vì phải đọc nhiều tin tức, rồi suy nghĩ, lược bỏ những điều trùng lặp, nêu lên những điểm cần lưu ý với độc giả. Như vậy là đã có sự chuẩn bị, ứng khẩu cái kiểu gì như thế??? Ứng khẩu là phải như kiểu, khi còn nhỏ, Lê Quý Đôn bị ra đề làm bài thơ có tên: Rn đầu biếng học!

Trong bài này, Đinh Thạch Bích đã bỏ hai tiếng “ứng khẩu”, đổi lại bằng in chữ đậm có gạch đít, chứng tỏ rằng đã suy nghĩ rất cẩn thận. Ấy thế mà Đinh Thạch Bích, đã để lộ ra khá nhiều những tin tức bịa đặt. Mà cái trò ma mãnh của Đinh Thạch Bích, cố tình lèo lái bạn đọc sa lầy vào những tin tức láo lếu đó, để không nhận ra việc rất gian manh của Đinh Thạch Bích, là chạy tội cho Hồ chí Minh và tập đoàn việt-gian-cộng-sản của hắn.

Nam Nhân xin được chứng minh như sau:

Thí dụ 1:

(trích nguyên văn):

Quân đội của một nước có tự chủ phải được xây dựng trong khả năng và tương xứng với tầm vóc văn hóa, chính trị và nhất là kinh tế của quốc dân. Năm 1945, VIệT-GIAN-CộNG-SảN đội lốt dân tộc, cướp được quyền bính, nhân danh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lập ra quân đội quốc gia, lấy tên là Vệ Quốc Đoàn. VQĐ cùng với toàn dânkháng chiến chống Pháp, lấy “chủ nghĩa yêu nước” – sức mạnh tinh thần – cân bằng chênh lệch về sức mạnh vật chất giữa ta và địch. Kinh tế nước ta lúc đó yếu; văn hóa chưa mạnh lại sau thời Pháp đô hộ. Nhưng về chính trị, khi Thế Chiến II kết thúc, ta có một cơ hội bằng vàng với chủ trương “giải thực” – decolonization – của các siêu cường thắng trận. Với cơ hội ấy, ta đã có thể, qua thương thuyết, giành lại Độc Lập mà không tốn xương máu, như tất cả các thuộc địa khác của các “cựu đế quốc”, trên khắp thế giới. Vì có mặt Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Đông Dương, Việt Nam đã bị “tước mất” cơ hội “giành lại Độc Lập không tốn xương máu”. Các siêu cường thắng trận đã ngoảnh mặt làm ngơ, để cho người Pháp trở lại Đông Dương như trước Thế Chiến II. Kể cả Liên Xô lúc đó cũng “không dám”công nhận nền “độc lập” của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vì Stalin sợ “mếch lòng” Mỹ, và “đồng minh” Pháp. Mỹ từng cho tình báo OSS nhảy dù xuống giúp Hồ lập Đội Võ Trang Tuyên Truyền, tiền thân của Vệ Quốc Đoàn.”

(ngưng trích).

Ở đoạn trên, Đinh Thạch Bích, dù là dốt nát thì cũng không tránh được tội tô vẽ cho tập đoàn việt-gian Hồ chí Minh, khi Đinh Thạch Bích nói rằng: “Năm 1945, VIT-GIAN-CNG-SN đội lốt dân tộc, cướp được quyền bính, nhân danh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lập ra quân đội quốc gia, lấy tên là Vệ Quốc Đoàn.

Sự thật lịch sử là: Sau khi Hồ chí Minh dựng ra cái gọi là chính phủ lâm thời, về mặt quân sự, chúng chỉ có một trung đội do Võ Nguyên Giáp làm trung đội trưởng và Chu văn Tấn làm chính trị viên, có tên đội “tuyên truyền vũ trang”, với khoảng hơn ba chục tên, từ rừng núi về Hà nội. Sau khi có sự tham gia vào chính phủ của những nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, kể cả các quan lại, cả các nhân vật đã từng ở trong chính phủ Trần Trọng Kim, thì bấy giờ thanh niên Hà nội cũng như các tỉnh thành miền Bắc đã được huy động gia nhập lực lượng tự vệ. Chính cái lực lượng tự vệ này đã bị tập đoàn việt-gian Hồ chí Minh thông qua chính phủ Liên Hiệp đa đảng (vì có cả Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Cách tham gia …), âm mưu nắm lấy, nên chúng cho kết hợp với cái trung đội của Võ Nguyên Giáp. Và chúng cũng cho xóa số cái tên “đội tuyên truyền vũ trang” để dựng ra cái tên mới gọi là “Vệ Quốc Đoàn”, mà chúng thường tuyên truyền rỉ tai rằng, đó là lực lượng vũ trang của “Mặt Trận Việt Minh”. Phải đến tận ngày 22/5/1946, với chủ trương hợp nhất các lực lượng vũ trang, được sự đồng ý của các đảng phái là Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh; Việt Cách của Nguyễn Hải Thần; việt-gian Hồ chí Minh đã ký sắc lệnh số 71 về cái gọi là “tổ chức quân đội” (gồm quân đội của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Cách, Vệ Quốc Đoàn của Việt Minh (là một tổ chức bao gồm nhiều đảng phái, cá nhân lẫn lộn cả cộng sản và không cộng sản, như chính Hồ chí Minh đã thừa nhận với tướng Tàu của Tưởng Giới Thạch, là Trần Tu Hòa, có mặt tại Hà nội thời kỳ đó để giải giới quân Nhật) và kể cả Bảo An Binh của chính phủ Trần Trọng Kim. Lực lượng vũ trang mới này được gọi là Quân Đội Quốc Gia. Về điều này, trong cuốn “Những tên Đặc Công Đỏ trong Phong Trào đòi hỏi Dân Chủ cho Việt Nam”, do nhà xuất bản Hưng Việt ấn hành năm 2004, ở trang 36 chúng tôi đã nói rõ. (dựa theo bản chụp các sắc lệnh có lưu trữ tại “Bảo tàng Hồ chí Minh”, ở Hà nội; và căn cứ vào bài báo đăng trên báo Cứu quốc , số 250, ngày 27/5/1946. Ai cũng có thể kiểm chứng được.)

Thí dụ 2:

Như vậy là Đinh Thạch Bích đã cố tình loại bỏ lực lượng vũ trang của các đảng phái quốc gia để gắn cho cái gọi là “đội võ trang tuyên truyềnlà tiền thân của Vệ Quốc Đoàn??? Nên nhớ rằng đội võ trang tuyên truyền là gồm những con người nghe theo lời cái gọi là tổ chức Việt Minh, do việt-gian-cộng-sản đội lốt những đảng phái quốc-gia để cướp tổ chức này, mà thành lập ra vào ngày 22/12/1944. Còn Vệ Quốc Đoàn, thì thành viên của nó, ngoại trừ cái nhóm đội võ trang tuyên truyền và những tên cộng sản dấu mặt, thì tuyệt đại đa số là những thanh niên Việt Nam gia nhập để Bảo Vệ Tổ Quốc, theo lời kêu gọi của Chính Phủ Liên Hiệp đa đảng, như cái danh xưng của nó là Vệ Quốc vậy. Hoàn toàn không có nhiệm vụ đi tuyên truyền cho tập đoàn việt-gian-cộng-sản như đội võ trang tuyên truyền của chúng. Vì thế cho nên bộ trưởng quốc phòng là Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc Dân đảng), sau đó, khi hợp nhất các lực lượng vũ trang, thỉ Bộ trưởng Quốc Phòng là Luật sư Phan Anh (không đảng phái, nguyên Bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim).

Trò bịp bợm, xuyên tạc sự thực lịch sử này của Đinh Thạch Bích là một hình thức nâng bi cho lực lượng vũ trang của tập đoàn việt-gian-cộng-sản mà thôi!!!

Thí dụ 3:

(trích nguyên văn):

Năm 1948, Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, suýt bắt sống được Hồ. Năm 1949, Mao tiến xuống Hoa Nam, làm chủ toàn nước Tàu. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mau chóng công khai hóa quan hệ ngoại giao, trong khi Liên Xô chỉ thừa nhận Trung Quốc mà không nói gì đến VNDCCH. Năm 1950, Hồ theo chân trong đoàn ngoại giao Tàu sang LX cầu viện; Stalin “đùn” cho Mao cõng Hồ. Con đường độc đạo trước mắt Hồ, chỉ có “con voi Tàu” để rước về dầy mả tổ VN. Từ đó, VNDCCH thay đổi mọi mặt, khởi đầu là chỉnh phong – sửa đổi lối làm việc – rèn cán, chỉnh quân ... Rập khuôn “chủ nghĩa dân chủ nhân dân” Tàu, cái gì của VNDCCH cũng phải dán nhãn hiệu “nhân dân”. Tờ báo chính thức của “nước ta”, đang tên là báo “Cứu Quốc”phải đổi thành báo “Nhân Dân” từ bấy cho đến nay. Các cấp hành chánh từ dưới lên trên đều phải gọi là “Ủy Ban Nhân Dân”. Rồi thì nào là tòa án nhân dân, công an nhân dân, nhà giáo nhân dân, nghệ sĩ nhân dân, đủ thứ “nhân dân”, lu bù vô số kể ... Riêng cái gọi là “tòa án nhân dân” rập khuôn Tàu Cộng, đã được báo chí quốc tế đặt tên cho là “kangaroo court”, được đem dùng làm công cụ “đấu tranh giai cấp”, tạo nên biến động xã hội mà người trong cuộc – cụ thể, quý vị “lão thành cách mạng” – mô tả là “trời long đất lở”, đưa đến “tội ác diệt chủng”, giết hại hàng triệu người, với những phương cách đoạt mạng man rợ chưa từng thấy trong xã hội Việt Nam, từ cổ chí kim. Tội ác diệt chủng này, không thể chỉ “xin lỗi” hay “sửa sai” mà có thể “xí xóa” được.

(ngưng trích)

Trong đoạn trên, Đinh Thạch Bích lại lập lờ khi viết rằng “Liên Xô chỉ thừa nhận Trung Quốc mà không nói gì đến VNDCCH. Năm 1950, Hồ theo chân trong đoàn ngoại giao Tàu sang LX cầu viện; Stalin “đùn” cho Mao cõng Hồ. Con đường độc đạo trước mắt Hồ, (Nam Nhân xin lưu ý câu chữ đỏ này), chỉ có “con voi Tàu” để rước về dầy mả tổ VN.”

Ở đoạn trên, Đinh Thạch Bích đã gian manh lèo lái để chạy tội cho Hồ và tập đoàn việt-gian-cộng-sản của hắn, vì ở cái thế chẳng đặng đừng, nên buộc phải đi theo “con đường độc đạo” (nghĩa là duy nhất), là phải theo Tàu cộng. Đinh Thạch Bích nói vậy là gian manh, thử hỏi rằng lúc đó không còn con đường lựa chọn nào khác chăng? Tỉ dụ như tại sao không Hòa Hợp với chính quyền Bảo Đại, lúc đó đã được Pháp trao trả quyền độc lập, chắc chắn sẽ không thể nào bị cái họa “con voi Tàu” dầy mả Tổ VN!!!

Chẳng lẽ Đinh Thạch Bích lại không biết rằng, ngay từ 1921, khi việt-gian Hồ chí Minh lựa chọn Nga xô làm Tổ quốc, và nói rõ lập trường chính trị là đi theo cái gọi là “thế giới đại đồng”, thì trong đó đã có cả cộng sản Tàu. Vì cũng năm 1921, đã thành lập cái gọi là “đảng cộng sản Trung quốc”.

Và nên nhớ rằng vào cái năm 1950, họ Mao còn phải phụ thuộc vào Stalin, cho nên không phải là Stalin “đùn” cho Mao cõng Hồ mà là SAI Mao giúp cho Hồ, cũng tức là giúp cho đế quốc Đỏ Nga Xô mở rộng đất đai. Nào có khác gì năm 1930, Stalin cũng ra lệnh cho Hồ phải đổi tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông Dương, tức là Hồ phải dùng máu xương người Việt Nam để bành trướng đế quốc đỏ Nga xô ra toàn Đông Dương. Như thế không phải là vì Stalin không công nhận Lào và Miên, nên Stalin đã “đùn” cho Hồ CÕNG Lào và Miên!!!

Đây là những sự thực rành rành mà chỉ những kẻ hoặc ngu dốt hoặc CHỐNG ĐỠ, nên mới cố tình giả mù để lập lờ chạy tội việt gian cho tên đại tội đồ Hồ chí Minh và cái đảng việt-gian cộng sản của hắn.

Kiểu nhận định về Quân Đội Quốc Gia của Đinh Thạch Bích khiến Nam Nhân thấy rằng lập luận của tên đặc công đỏ Bùi Tín: “Quân đội là lực lượng do đảng (tức cộng sản) sáng lập và lãnh đạo”, đã thâm nhập vào bộ óc hồi chánh của Đinh Thạch Bích, khiến hắn đã biến thành một đệ tử của Bùi Tín về quan điểm chính trị cũng như về phương pháp tuyên truyền: Trộn lẫn thực giả, lừa đảo bạn đọc và mơ hồ hóa thế hệ trẻ cả trong và ngoài nước Việt Nam về những sự thật lịch sử!

Thí dụ 4:

Đinh Thạch Bích cũng thật là bạo phổi khi nói rằng: “từ đó (tức 1950, (vndcch thay đổi mọi mặt, khởi đầu là chỉnh phong - sửa đổi lề lối làm việc – rèn cán chỉnh quân… Rập khuôn “chủ nghĩa dân chủ nhân dân” Tàu, cái gì của vndcch cũng phải dán nhãn hiệu “nhân dân”. Tờ báo chính thức của “nước ta”, mang tên là báo “Cứu quốc” phải đổi thành báo “Nhân Dân” từ bấy cho đến nay.”

Trong đoạn này Đinh Thạch Bích đã sai lầm khi nói rằng “khởi đầu là chỉnh phong”. Sự thật là ngay từ cuối 1948 sang 1949, việt-gian Hồ chí Minh đã cho tổ chức cái gọi là “đấu tố chính trị”, cho nên rất nhiều người đã phải bỏ chạy từ vùng gọi là “kháng chiến” vào trong các thành thị, khi đó do lực lượng của Quốc trưởng Bảo Đại quản lý. (một thí dụ cụ thể là Bộ trưởng Đặng văn Hương của Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Pháp, thân phụ của ông Bằng Phong Đặng văn Âu, về thăm gia đình tại địa phương đã bị đấu tố chính trị, khiến uất ức phải tự tử!

Còn cái gọi là “Tờ báo chính thức của “nước ta”, đang tên là báo “Cứu quốc” phải đổi thành báo “Nhân Dân” từ bấy cho đến nay.”, chứng tỏ Đinh Thạch Bích đã dốt nát lại hay nổ sảng (cái này là thực sự dốt nát chứ không phải là nâng bi việt-gian-cộng-sản).

Để Nam Nhân giải thích cho Đinh Thạch Bích biết:

Tờ báo Cứu quốc ra đời cùng với cái gọi là tổ chức Việt Minh (một tổ chức do nhiều đảng phái lập ra tại bên Tàu, gồm có những nhân vật như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ… với sự cầm đầu của Hồ Học Lãm. Sau khi ra khỏi nhà tù của Trương Phát Khuê, Hồ mới xin gia nhập tổ chức Việt Minh này và xin phép về hoạt động ở trong nước. Chính cái tổ chức Việt Minh đó với nhân sự chủ chốt không phải là cộng sản và đường lối không khát máu, cho nên dễ dàng thâm nhập vào quần chúng. Bè lũ việt-gian Hồ chí Minh bèn ăn cắp cái tổ chức đó để hoạt động che bộ mặt khát máu của chúng). Tờ báo mang tên Cứu quốc là cơ quan ngôn luận của mặt trận Việt Minh. Nó vẫn tồn tại cho đến 1976, nghĩa là sau khi việt-gian-cộng-sản xâm lược xong Việt Nam Cộng Hòa và chúng cho hợp nhất các mặt trận: Mặt trận Tổ Quốc, hậu thân của mặt trận Liên Việt, mặt tận Liên Việt tuy là hậu thân của mặt trận Việt Minh, nhưng sự thật nó chính là ngón đòn của việt-gian Hồ chí Minh nhằm loại bỏ mặt trận Việt Minh, tức là loại bỏ các đảng phái không là cộng sản như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Cách.

Sự hợp nhất của mặt trận Tổ Quốc với mặt trận giải phóng của Nguyễn hữu Thọ (cơ quan ngôn luận là tờ giải phóng, và với mặt trận Liên minh dân tộc Dân Chủ và Hòa Bình của Trịnh Đình Thảo, để chỉ còn lại một mặt trận duy nhất vẫn giữ cái tên mặt trận Tổ Quốc). Tờ báo Cứu quốc của mặt trện “Tổ Quốc” và tờ “Giải Phóng” của mặt trận giải phóng, được hợp nhất lại cả tổ chức và nhân sự và có cái tên mới là báo Đại Đoàn Kết. Chẳng có dính dáng gì tới báo Nhân Dân cả, hỡi ông thợ nổ Đinh Thạch Bích!!!

Thí dụ 5:

Đinh Thạch Bích cũng lại dốt nát mà hay nổ khi nói rằng: ““chế độ hộ khẩu” của Tần Thủy Hoàng”.

Thú thật nói thì bảo là khoe, nhưng cháu của Nam Nhân cũng biết rằng cha đẻ ra “cái chế độ hộ khẩu” là Thương Ưởng, là tướng quốc của nước Tần, nhưng trước Tần Thủy Hoàng rất xa, từ khi nước Tần còn là một nước man di mọi rợ, không văn hóa lễ giáo.

Mong rằng Đinh Thạch Bích nếu vì dốt thì nên học lại. Nếu còn tôn trọng độc giả thì đừng tập nói láo một cách vô trách nhiệm. Và còn nghĩ đến thế hệ trẻ thì đừng nên đầu độc bằng cái trò nổ sảng.

Mong lắm thay. Lời thật mất lòng.

Nhưng vì trách nhiệm đối với bạn đọc Nam Nhân tôi không thể nào không nói ra sự thật.

Anh quốc, ngày 24 tháng 6 năm 2010

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Thursday, June 24, 2010

Viet thuong - Vấn đề tù binh Mỹ-Tháng 4-1993

Vấn đề tù binh Mỹ


Những ngày gần đây, báo chí trên thế giới quan tâm đến vụ một tài liệu mật, về số liệu tù binh Mỹ ở Việt Nam vào thời điểm 1972, đã được khui ra từ Cục lưu trữ của Trung ương Đảng cộng sản Liên-xô. Tài liệu này là bản báo cáo của bộ Tổng tham mưu quân đội cộng sản Hà-nội do tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó ký. Theo tài liệu này thì vào năm 1972 số tù binh Mỹ còn bị giam giữ tại nhà tù cộng sản Việt Nam là 1.205 người. Trong lúc đó, cộng sản Hà-nội lại khai với nhà cầm quyền Mỹ là chỉ giam giữ có 368 người. Số liệu của hai bản khai báo đó sai lệch nhau 837 người !

hình việt gian Võ Nguyên Giáp và thượng tướng việt gian Trần Văn Quang, nguyên cục trưởng
Cục Tác chiến chiến dịch ĐBP, ở hầm chỉ huy của tướng De Castries

Nhiệt độ quan hệ Mỹ - Việt có thể thay đổi do sự kiện này. Chẳng thế, báo chí của Mỹ, của nhiều nước và ngay cả cộng sản Việt Nam cũng ồn ào lên tiếng về tính xác thực của tài liệu nói trên.

Phiá cộng sản Việt Nam ngoan cố vu cáo đây là một tài liệu giả mạo với dẫn chứng rất yếu ớt rằng tướng Trần Văn Quang vào thời điểm năm 1972 không giữ chức tổng tham mưu phó quân cộng sản Hà-nội. Nhưng, họ lại lòi đuôi trong một bài báo đăng trên tờ Nhân Dân ngày 21-11-1992 rằng tướng Trần Văn Quang đã giữ chức tổng tham mưu phó quân cộng sản Hà-nội từ 1959 !

Trong số ý kiến đăng trên báo nước ngoài, sự phân tích của một người Úc ở Trung tâm nghiên cứu các vấn đề của quốc tế ở đại học Harvard (Mỹ) có vẻ rất tỷ mỷ, nhưng tiếc rằng điều tỷ mỷ đó chỉ chứng tỏ ông ta chẳng hiểu gì về thế giới cộng sản nói chung, nhất là về cộng sản Việt Nam.

Về vấn đề nhân sự trong bộ tổng tham mưu của cộng sản Hà-nội cũng chưa được phản ảnh chính xác trong một số tài liệu của một số cơ quan có thẩm quyền của Mỹ.

Câu hỏi đặt ra lúc này là :

1) Tài liệu về số lượng tù binh Mỹ ở Việt Nam năm 1972, lấy từ cục lưu trữ Trung ương Đảng cộng sản Liên-xô có phải là một tài liệu chân thực không ?

2) Năm 1972, tướng Trần Văn Quang có giữ chức phó tổng tham mưu quân đội cộng sản Hà-nội không ?

Trần Văn Quang

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Trần Văn Quang (1917-) là một Thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, từng giữ các chức Cục trưởng Cục tác chiến, phó tổng tham mưu trưởng, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Ông giữ chức chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam từ 1992 đến 2002.

[sửa] Tiểu sử

Ông còn có tên gọi là Trần Thúc Kính, sinh 1917, quê tại xã Nghi Hoa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chiu nhiều ảnh hưởng của anh trai là nhà hoạt động cách mạng Trần Văn Cung (1906-1977), bí thư đầu tiên của chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam (Nhà 5D Hàm Long).

Ông tham gia cách mạng từ 1935, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1936. Từ 1938 đến 1939, ông là Thành ủy viên Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1939, bị thực dân Pháp bắt giam. Tháng 10 năm 1940, ông vượt ngục về hoạt động ở Nghệ An. Tháng 4 năm 1941, ông bị bắt lần thứ hai và bị kết án tù chung thân.

Tháng 6 năm 1945, ông ra tù, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nghệ An. Năm 1946, ông được phân công giữ chức Chính ủy Bộ Chỉ huy tiếp phòng quân (chỉ huy trưởng là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng). Tháng 11 năm 1946, ông là Chính ủy Khu IV (Tư lệnh cũng là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng).


Từ năm 1948 đến 1949, ông giữ chức Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Phân khu Bình - Trị - Thiên. Tháng 5 năm 1950, Đại đoàn 304 được thành lập, ông được chỉ định giữ chức Chính ủy Đại đoàn.[1] Năm 1951, ông được điều giữ chức Cục trưởng Cục Địch vận.

Năm 1953, ông được cử giữ chức Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, đặc biệt chuyên trách chiến dịch Điện Biên Phủ.

Năm 1958, ông giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam kiêm Cục trưởng Cục Tác chiến[2], hàm Thiếu tướng. Năm 1961, ông được điều vào Nam, giữ chức Ủy viên Trung ương Cục miền Nam. Năm 1965, tư lệnh Quân khu IV; trong những năm 1966 - 1973, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Bình - Trị - Thiên.

Năm 1974, ông được thăng quân hàm Trung tướng và được điều động trở lại chức Phó Tổng tham mưu trưởng. Từ năm 1978 đến 1981, ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam ở Lào.

Năm 1981, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, và được thăng Thượng tướng năm 1984.

Từ năm 1992 đến 2002, ông là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam.

Ông là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1960 - 1976). Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng[3] và nhiều huân chương quân sự khác

3) Liệu còn tù bình Mỹ ở Việt Nam không ? Số phận của họ ra sao ?

T H Á I T H Ú SERBAKOV

Năm 1960, tướng tình báo Nga-xô là Serbakov được cử sang Hà-nội làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Viên Thái Thú này đã ở Hà-nội từ đó cho đến 1977. Trong 18 năm làm Thái Thú ở Bắc Việt Nam, Serbakov đã được giới phóng viên nước ngoài đến Hà-nội gọi là Sa-hoàng đỏ. Bởi vì, Serbakov vừa hống hách, vừa thực sự là kẻ có quyền hành ở Việt Nam. Bất kể việc lớn, việc nhỏ, đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam đều bẩm báo. Nhà riêng của Phạm Văn Đồng, ở đường Khúc Hạo (Hà-nội) liền tường với phủ toàn quyền do Serbakov ngự tọa. Và, người thường xuyên ra vào tư thất của Serbakov là Phạm Văn Đồng, khi đó là nhân vật thứ ba trong bộ chính trị cộng đảng, kiêm thủ tướng chính phủ; và người nữa là Nguyễn Văn Kỉnh, ủy viên trung ương cộng đảng, phó ban đối ngoại trung ương phụ trách thường trực, kiêm chủ tịch hội hữu nghị Việt-Xô; đã từng là đại sứ tại Nga-xô sau Nguyễn Lương Bằng (phó chủ tịch nước)

Vơí số lượng người Nga nằm trong mọi cơ quan Nhà Nước cộng sản Việt Nam - nhất là trong quân đội và ngành địa chất -; với các cán bộ cả chủ chốt lẫn trung gian của cộng sản Việt Nam được ăn học, đào tạo tại Nga; với các chi hội Việt-Xô ở khắp các cơ quan, trường học, nhà máy, nông trường, công trường trên cả miền Bắc Việt Nam v.v... nên viên tướng tình báo Thái Thú Serbakov không những nhận được các báo cáo từ phiá đảng và chính quyền cộng sản Hà-nội, mà còn có điều kiện kiểm chứng tính xác thực của các báo cáo đó,và, đôi khi còn có khả năng cung cấp thêm tài liệu cho cộng sản Hà-nội. Thí dụ : ở ủy ban khoa học và kỹ thuật thì từ phó chủ nhiệm Nguyễn Văn Hiệu, cho đến các giáo sư tiến sỹ nổi tiếng như Nguyễn Đình Tứ (nay là bí thư trung ương đảng), Vũ Đình Cự, Phan Đình Diệu, Nguyễn Văn Đạo v.v... đều từ Nga trở về. Con trai Trường Chinh là Đặng Xuân Kỳ (ủy viên trung ương đảng); con trai Lê Duẩn là Tường Vân - nhà bình luận thời sự của nhật báo Sài-gòn Giải Phóng; con gái Võ Nguyên Giáp là tiến sỹ vật lý nguyên tử Võ Hồng Anh; cho đến con gái Tố Hữu làm ở viện khoa học công an v.v... đều từ Nga mà ra. Thậm chí các thư ký riêng của những ũy viên bộ chính trị cộng đảng cũng học ở Nga về như Việt Phưong (thư ký của Phạm Văn Đồng); Vũ Định (thư ký của Lê Thanh Nghị) v.v... Các việc lớn như vụ máy bay điện tử gây nhiễu radar RBU của Mỹ rơi ở bờ biển xã Trung đồng, huyện Tiền Hải (Thái Bình) hay máy bay F.111 rơi ở Lương Sơn (Hòa Bình) thì chính là nhân viên trong sứ quán Nga ở Hà-nội, dưới quyền tùy viên quân sự, là những người có mặt đầu tiên ở chỗ máy bay rơi; lính cộng sản Việt Nam chỉ có nhiệm vụ canh gác cho đến khi nhân viên Nga chuyển hết xác những máy bay đó về Nga. Những sỹ quan cộng sản Hà-nội làm nhiệm vụ hỏi cung tù binh Mỹ cũng được đào tạo tại Nga - chính qui hoặc bổ túc. Chuyện nhỏ như khám phá ngôi mộ cổ của công chúa thời Lý - thế kỷ XI - ở; Thái Bình, cũng chuyên gia Nga có mặt ngay buổi đầu để tìm hiểu về nghệ thuật ướp xác của người Việt xa xưa. Trong quân đội thì hầu hết sỹ quan các binh chủng pháo binh, tên lửa, radar, không quân, thiết giáp, hóa học, hậu cần, y dược đều được đào tạo tại Nga, kể cả các viên tướng tư lệnh từ Văn Tiến Dũng đến Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Đôn, Trần Văn Quang, Lê Văn Tri, Giáp Văn Cương, Hoàng Minh Thảo, Đặng Vũ Hiệp v.v... Tất cả những người đó đều có "quan thầy", có cha nuôi, mẹ nuôi, anh chị em kết nghĩa là Nga. Đến mức nhiều khi tiếng nói của họ còn mạnh hơn đảng và chính quyền cộng sản Hà-nội. Thí dụ : một lá thư của tiến sỹ Phan Đình Diệu, hay thư của Nguyễn Thị Hằng (khi đó là ủy viên ban đối ngoại của quốc hội) có giá trị xin viện trợ về khoa học kỹ thuật hoặc vũ khí còn hiệu quả hơn ủy viên bộ chính trị kiêm phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đích thân bị gậy đi ăn xin.

Bởi vậy, ý kiến cho rằng số liệu 1.205 tù binh Mỹ ở thời điểm 1972 do tướng Trần Văn Quang báo cáo là sự "thổi phồng" nhằm khoe thành tích để xin viện trợ của Nga-xô được nhiều hơn là không có cơ sở. Bởi bản thân Hồ Chí Minh cho đến Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng việc gì cũng phải báo cáo, tham khảo ý kiến của thái thú Serbakov chưa nói đến việc đều đặn có các phái đoàn của Trung ương cộng đảng Nga-xô sang Việt Nam kiểm tra mọi mặt. Rồi, ngay Việt Phương, thư ký riêng ưu ái của Phạm Văn Đồng, cũng là Vụ trưởng Vụ tổng hợp Phủ thủ tướng, người có nhiệm vụ tổng hợp mọi báo cáo, tin tức trong và ngoài nước để báo cáo Phạm Văn Đồng và sau đó sang phủ chủ tịch báo cáo lại vơí Hồ Chí Minh để xin chỉ thị thêm cũng từng sang Nga-xô để nghiên cứu về kinh tế, là bạn thân của Serbakov và nhiều cán bộ cao cấp trong sứ quán Nga tại Hà-nội. Ngay cả tướng Trần Văn Quang, cũng đã từng sang Nga-xô học về tham mưu ở Học viện quân sự Fruntzé, có lẽ nào dám báo cáo "láo" vơí bộ chính trị cộng đảng Việt Nam và trung ương cộng đảng Nga-xô. Còn ý kiến cho rằng văn phong dùng trong báo cáo không có những từ ngữ mà tướng Trần Văn Quang hay dùng. Người có ý kiến đó, có vẻ tỷ mỷ trong nghiên cứu, nhưng tiếc là chưa có kiến thức tỷ mỷ về cộng sản Việt Nam. Cần phải hiểu rằng, ở cỡ tướng Tổng tham mưu phó như Trần Văn Quang, có cả hàng bầy thư ký riêng. Các báo cáo hoàn toàn do thư ký riêng soạn thảo, kể cả các bài nói lẫn bài báo, và tướng Trần Văn Quang hoặc đọc lại, hoặc nghe đọc lại và ký. Thậm chí có khi chỉ nhìn lướt qua rồi ký. Cho nên văn phong trong các báo cáo là tùy thuộc văn phong của từng thư ký riêng và tùy từng nơi nhận báo cáo. Làm sao có lối nói chung một ngôn từ ở trước hàng quân hoặc trên mặt báo cho quảng đại quần chúng với báo cáo gửi cấp "lãnh tụ" tối cao ! Thí dụ : ngay các bài nói của Phạm Văn Đồng - lãnh tụ của tướng Trần Văn Quang - về văn phong cũng khác nhau, tùy theo bài nói đó do các thư ký riêng là Việt Phương, hay Nguyễn Việt Dũng, hay Phan Mỹ chấp bút. Lại còn một sự nghiên cứu tỷ mỷ nữa (!) cho rằng ở Bắc Việt Nam khi ấy (1972) chỉ có mười nhà tù giam giữ các tù binh Mỹ với sức chứa 100 người mỗi nhà tù. Như vậy thì sẽ có dư một số tù binh, họ ở vào đâu ? Đúng là lối suy nghĩ của mấy vị nhà giàu, quen sống với cơ chế pháp trị, chẳng hiểu mô tê gì về cộng sản - nhất là cộng sản Việt Nam. Xin nhớ cho rằng nhà tù không phải là cái chén đựng nước có sức chứa cố định để đến nỗi khi đã đầy tràn thì thêm dù một giọt cũng trào ra ngoài. Nhà tù của cộng sản Việt Nam hoàn toàn không giống nhà tù ở các nước phương Tây có qui định chỗ ở của mỗi phòng vơí số lượng nhất định. Hãy phỏng vấn hàng triệu sỹ quan miền Nam cũ đã có nhiều năm ở nhà tù của cộng sản Việt Nam để biết rằng chế độ nhà tù Việt Nam cộng sản có thể nhốt 20 người trong một căn phòng vơí diện tích 10m2, hoặc 5 tù nhân nằm chung 2 chiếu cá nhân. Nên nhớ rằng, tài liệu chính thức của Sở quản lý nhà đất Hà-nội công bố diện tích nhà ở của cán bộ và dân Hà-nội là 4m2/đầu người. Nhưng thực tế là 2m2 rưỡi/đầu người. Thậm chí nhiều gia đình phải chịu cảnh 0m2 80/đầu người, ngay cả những nhà văn tên tuổi như Quang Dũng và Trần Lê Văn (dính líu vào phong trào Nhân-văn - Giai-phẩm). Cho nên việc một nhà tù có sức chứa 100 người vẫn có thể bị giam gấp rưỡi số qui định, hoặc tăng thêm vài nhà tù trong lãnh thổ mà cộng sản quản lý là điều dễ hiểu và chỉ nửa tiếng đồng hồ là có thể có một nhà tù mới. Thí dụ, người Sài-gòn đều biết sau tháng 4-1975, khách sạn Đại-lợi ở chợ Ông Tạ đường Thoại Ngọc Hầu bị biến thành nhà tù của ty an ninh nội chính (tức công an) quận Phú Nhuận !

NÓI LÁO LÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi nói láo liên tục. Lớn thì như cái bánh vẽ "Độc lập, tự do, hạnh phúc" cho nhân dân Việt Nam, riêng tư thì như tự mình lấy bút danh khác viết sách "tự ca ngợi", dối trá cả ngày sinh tháng đẻ cho đến chuyện gia đình vợ con. Cho nên người Hà-nội trước năm 1975, đã quá quen thuộc một vài bài thơ truyền miệng về bản chất của Hồ Chí Minh. Đó là :

"Họ Hồ ra đứng ngắm trăng
Thấy chú Cuội nằm dưới gốc cây đa
Họ Hồ mới gọi Cuội ta
Rủ thi nói láo xem là ai hơn
Nghe Hồ miệng nói ngọt trơn
Cuội vội quỳ xuống xin tôn làm THẦY."

hoặc một bài khác :

"Họ Hồ có cái mặt mo

Bắc-kinh xin đổi ba bò, chín trâu

Hồ rằng Hồ chẳng lấy trâu

Nga-xô xin đổi một xâu cá mè

Hồ rằng Hồ chẳng lấy mè

Bắc-kinh xin đổi một bè gỗ lim

Hồ rằng Hồ chẳng lấy lim

Nga-sô xin đổi đôi chim đồi mồi

Hồ rằng Hồ chẳng lấy mồi

Bắc-kinh xin đổi máu tươi : Hồ cười

Nga-xô thêm "tý" thịt người Việt Nam

Mặt mo, Hồ đúng Việt gian !!!"

Bởi thế cho nên quá trình tiếm quyền của cộng đảng Việt Nam cũng như đệ tử của Hồ Chí Minh, mà các chóp bu hiện nay là Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, cũng vẫn sử dụng cẩm nang về võ nói láo của Hồ Chí Minh trong suy nghĩ và hành động.

Trong vụ tài liệu về tù binh Mỹ ở thời điểm 1972 có chữ ký của tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, cũng vậy. Một mặt báo chí cộng sản Hà-nội thanh minh rằng tướng Trần Văn Quang vào năm 1972 không giữ chức phó tổng tham mưu trưởng quân cộng sản Hà-nội. Giai đoạn 1965-1974 tướng Trân Văn Quang là tư lệnh cộng quân quân khu 4, tiếp đó là tư lệnh quân khu Trị-Thiên-Huế, để rồi đến 1974-1978 mới trở lại cái ghế tổng tham mưu phó "rồi tư lệnh bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Lào".

Cần lưu ý rằng xã hội cộng sản Việt Nam hoàn toàn khác với xã hội phương Tây ở chỗ đảng cầm quyền và chính quyền của nó coi việc thay đổi lý lịch, tiểu sử bản thân của các viên chức có quyền là nhằm "bảo vệ cán bộ" và đó là công tác của ban tổ chức trung ương đảng. Sự nói láo đó quá phổ biến đến mức người ta chẳng ngạc nhiên về những chuyện như Lê Đức Thọ, Đinh Đức Thiện và Mai Chí Thọ là ba anh em ruột cùng cha cùng mẹ mà đổi ba họ khác nhau; như nhà văn Nguyễn Công Hoan và Lê Văn Lương (ủy viên bộ chính trị cộng đảng) cũng là hai anh em ruột cùng cha cùng mẹ; như Lưu Hữu Phứơc và Huỳnh Minh Siêng là một người, tướng Lê Hiến Mai, ủy viên trung ương cộng đảng, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị cộng quân cũng chính là Dương Quốc Chính, ủy viên trung ương cộng đảng, bộ trưởng thương binh xã hội, có lúc cả hai cái tên với hai chức vụ khác nhau đó cùng xuất hiện một ngày trên báo Nhân Dân (!); như Đỗ Mười, vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn ở huyện Thanh-trì (xưa thuộc Hà-đông, nay nhập về Hà-nội) được đổi thành làm "công nhân" (cho có vẻ cách mạng nòng cốt); như Nguyễn Sinh Sắc, cha đẻ của Hồ Chí Minh, một tri huyện tham nhũng bị cách quan được chế biến thành "nhà nho yêu nước". Thậm chí đến nhỏ nhặt như các ca sỹ Quang Hưng và Anh Đào của nhà hát giao hưởng cũng đổi lý lịch để thành "văn công giải phóng" hệt như nhà văn (loại đại văn nô) Anh Đức nguyên gốc là Bùi Đức Aí, hay phóng viên báo Cứu Quốc (Hà-nội) là Thái Duy trở thành nhà văn "giải phóng" Trần Đình Vân, đi dự hội nghị các nhà văn Á-Phi và thay mặt văn nô giải phóng chúc thọ "Mao chủ tịch". Chắc mọi người không thể quên vụ đương kim phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, vốn là thư ký riêng của Nguyễn Thị Thập (chủ tịch phụ nữ cộng sản Hà-nội) trở thành Vụ phó vụ lễ tân bộ ngoại giao của bộ trường Xuân Thủy và, từ Hà-nội cưỡi máy bay thẳng sang Paris ngồi vào ghế của Trần Bửu Kiếm để thành "bộ trưởng ngoại giao của cái gọi là chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam".

Cho nên trường hợp tướng Trần Văn Quang cũng vậy, Bản tóm tắt lý lịch của tướng Quang viết trên báo Nhân Dân, rằng viên tướng này quê ở huyện Nghi Lộc (Nghệ an), gốc gia đình cách mạng, làm nghề nông, sinh năm 1917, vào cộng đảng năm 1936. Ngay trong cái đoạn này đã có những chi tiết - chẳng có gì la&osllash; quan trọng - mà cũng bị bóp méo. Sự thực Trần Văn Quang là người xã Nghi hải - xã ven bờ sông Lam, đối mặt bên kia bờ sông là làng Tiên Điền (Hà tĩnh) của thi hào Nguyễn Du; gia đình và bản thân làm nghề đánh cá ở Cửa Lò; tuổi lấy tử vi là Mậu Ngọ, nghĩa là 1918 chứ không phải 1917 !!!

Bởi gần như trọn vẹn giới chức cộng sản không hề có một cuộc đời đàng hoàng, đạo đức, nên chủ trương của cộng đảng Hà-nội là làm nhiễu loạn tư liệu để khó cho việc nghiên cứu tìm ra sự thật sau này qua văn khố thời thực dân Pháp để lại.

Vậy Trần Văn Quang là ai ?

Trần Văn Quang tên khai sinh là Nguyễn Đọi. Từ nhỏ đã theo nghề đánh cá ở sông Lam và vùng biển Cửa Lò (Nghệ an). Một tình cờ mà Nguyễn Đọi đã có dịp chở đò cho nhóm cộng sản hoạt động ở Bến Thủy (Vinh-Nghệ An) và đã được vào cộng đảng từ trước 1940. Cái tên Trần Văn Quang cũng có từ đó. Do mẫn cán, lại vào đảng cộng từ trước 1940, lại là gốc Nghệ An nên Trần Văn Quang đi rất nhanh trên con đường hoan lộ. Năm 1953 đã đeo quân hàm đại tá và là cục trưởng cục tác chiến bộ tổng tham mưu. Trong trận Điện Biên, đại tá cục trưởng cục tác chiến Trần Văn quang là cánh tay mặt của tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp; là người thức suốt ngày đêm để chỉ đạo, thâu thập tin tức chiến trường cho tướng Giáp. Và, đặc biệt ở chỗ đại tá Trần Văn Quang còn là nhà "tâm lý" có hạng, đã có sáng kiến đưa các cháu dân công người dân tộc thiểu số, cũng như các cháu văn công dễ coi đến giải sầu cho đại tướng Võ Nguyên Giáp, để minh mẫn chỉ huy chiến trường Điện Biên. Tướng Trần Văn Quang được coi là một sĩ quan có tính kỷ luật cao, cần mẫn và xông xáo, nên từ 1959 đã là thành viên quân ủy trung ương và đeo lon thiếu tướng, giữ chức tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, và đến đầu năm 1961 đã theo đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào Nam giữ chức ủy viên quân sự trung ương cục cộng sản ở miền Nam, phụ trách về tác chiến. Từ năm 1965, tướng Trần Văn Quang được cử giữ chức chính ủy của cả quân khu 4 lẫn quân khu Trị-Thiên-Huế, để làm sự điều phối thống nhất sự nối liền khúc Nam của miền Bắc Việt Nam với khu Bắc của miền Nam Việt Nam. Năm 1974, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, lúc đó đang giữ chức tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Lào kiêm cố vấn tối cao cho tổng bí thư Lào Cộng, Cay-Xon Phôm-Vi-Hản, được cử sang Bắc Kinh giữ chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền, nên tướng Trần Văn Quang thay tướng Vĩnh ở nhiệm vụ bên Lào. Trong phần lý lịch của tướng Quang, có mấy điểm cần làm sáng tỏ, đó là tướng Trần Văn Quang liên tục giữ chức vụ ủy viên quân ủy trung ương kiêm tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội từ 1959 cho đến 1982, song song vơí các nhiệm vụ khác. Báo Nhân Dân của Hà-nội, cũng như trong cuộc gặp mặt đầu tháng 4-1993 giữa tướng Mỹ,Vessey, tại Hà-nội với chủ tịch Nhà nước cộng sản Lê Đức Anh, thứ trưởng ngoại giao cộng sản Lê Mai và tướng Trần Văn Quang, thì tất cả đều chối rằng năm 1972 tướng Quang vì giữ chúc tư lệnh quân khu 4 nên không làm nhiệm vụ tổng tham mưu phó. Điều đó chứng tỏ tài liệu mật được khui từ cục lưu trữ trung ương cộng sản Nga-xô về số lượng tù binh Mỹ ở Việt Nam, thời điểm 1972, là "giả mạo".

Những người nắm vững lề lối tổ chức của cộng sản Hà-nội đều hiểu rằng sự chối bỏ của Lê Đức Anh, Lê Mai và Trần Văn Quang trước tướng Vessey là cực kỳ trắng trợn theo kiểu lấy vải thưa che mắt thánh với thiên hạ. Trong quân đội cộng sản Hà-nội, nếu một sỹ quan đã được cử làm tổng tham mưu phó thì họ vẫn giữ chức đó mãi cùng lúc với các chức vụ khác, cho đến khi nào họ được cử giữ chức lớn hơn chức tổng tham mưu phó. Thí dụ : trung tướng Hoàng Văn Thái, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, sau vào Nam giữ chức tư lệnh cộng quân giải phóng miền Nam; tướng Nguyễn Chánh, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, giữ chức tư lệnh kiêm chính ủy liên khu 5; tướng Đinh Đức Thiện, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, giữ chức bí thư đảng ủy khu gang thép Thái Nguyên, sau 1975 giữ chức bộ trưởng dầu khí; đại tá Phùng Thế Tài, tổng tham mưu phó, giữ chức tư lệnh binh chủng phòng không, không quân, sau 1975 còn giữ thêm chức Tổng cục trửơng hàng không dân dụng v.v... Dù làm thêm nhiệm vụ gì và dù ở đâu, những người đó cũng vẫn giữ chức tổng tham mưu phó. Làm sao tướng Trần Văn Quang lại là ngoại lệ ?(!) Vả chăng, năm 1972, người giữ chúc tư lệnh quân khu 4 là đại tá Đàm Quang Trung và tư lệnh quân khu Trị-Thiên-Huế là thiếu tướng Đoàn Khuê. Tướng Trần Văn Quang, với chức tổng tham mưu phó chỉ kiêm nhiệm thêm chức chính ủy của quân khu 4 và quân khu Trị-Thiên-Huế vì tính chất quân sự quan trọng cần có quyết định kịp thời ở khu vực này. Chẳng thế, mà thời kỳ đó tướng Lê Hiến Mai, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị cộng quân Hà-nội, cũng được cử vào vơí cái tên là bộ trưởng Dương Quốc Chính, thay mặt đảng và chính phủ ở khu 4 (tức quân khu 4).

Nếu đặt ra chuyện "tài liệu giả mạo", thì ai giả mạo ? Đương nhiên ở cục lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô thì là Nga-xô giả mạo. Để làm gì ? Để phá hoại sự bình thường của Mỹ với cộng sản Hà-nội chăng ? Hoặc phe cứng rắn trong cộng đảng Nga-xô hiện nay nhằm không cho Việt Nam cộng sản ngả vào vòng tay chú Sam mà muốn Việt Nam đi vào quỹ đạo của Trung Cộng ? Đúng là lý luận con nít, bởi chưng kẻ giả mạo ở cỡ trung ương cộng sản Nga-xô, là thầy cũng là chủ của cộng sản Hà-nội, làm sao có thể lẫn lộn ấu trĩ đến nỗi không biết thời điểm ở Việt Nam 1972 những ai là tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội hoặc vì "tư thù" tướng Quang mà dựng ra chuyện này. Để làm gì ?

Qua chứng minh ở trên, có thể kết luận : tài liệu mật về số lượng tù binh Mỹ ở Việt Nam, thời điểm 1972, do tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội ký, được khui từ cục lưu trữ trung ương cộng sản Nga-xô là tài liệu chân thực và năm 1972, tướng Trần Văn Quang dù kiêm nhiệm thêm gì chăng nữa thì vẫn liên tục là tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội từ 1959 - 1982.

SỐ PHẬN TÙ BINH MỸ CHƯA ĐƯỢC TRAO TRẢ ?

Chứng minh được tài liệu mật về tù binh Mỹ có chữ ký của tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội vào năm 1972 là chân thực, có nghĩa một vấn đề khác được đặt ra là: số phận của 837 tù binh Mỹ chưa được trao trả hiện nay ra sao ?

Trước khi trả lời câu hỏi này, tưởng cũng cần lược qua bài bản quen thuộc của cộng sản Hà-nội trong những vấn đề tương tự.

Còn nhớ cuộc chiến với thực dân Pháp từ 1946-1954, Hồ Chí Minh và các đệ tử, nhiều người từ thời kỳ đó đến nay đang còn nắm các chức vụ chủ chốt trong đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt v.v..., đã có cách giải quyết tù binh và hàng binh khá là độc đáo. Viên sỹ quan lê-dương gốc Đức, là hàng binh được Hồ Chí Minh nhận làm con nuôi, lấy tên Việt là Hồ Chí Dân, được biên chế trong công tác địch vận, (thời kỳ 1951-1952, chính tướng Trần Văn Quang giữ chức cục trưởng cục địch vận) là một thí dụ. Sau khi hiệp định Genève 1954 về Việt Nam được ký kết, chính quyền cộng sản Hồ Chí Minh đâu có chịu trao trả hết hàng binh và tù binh cho Pháp. Họ còn giữ lại khá nhiều, có người được cho lấy vợ Việt Nam và làm công nhân kỹ thuật bậc cao ở nhà máy ô-tô 1-5 (đường Phan Chu Trinh -Trần Hưng Đạo, HHà-nội), còn hàng trăm lính và sỹ quan gốc Âu-Phi thì chính quyền Hồ Chí Minh cho lấy gái điếm bị giam giữ tại trại tù Ba Sao (Phủ Lý) gả cho làm vợ và cho làm ăn tại nông trường Ba Vì (Sơn Tây) để học về chủ nghĩa Marx-Lénine. Ngoại trừ một số bị chết bỏ lại xác ở Ba Vì, số còn lại được đưa trả cho các chính phủ Phi Châu thân cộng như Lumumba ở Congo, Boumédienne ở Algérie v.v... Số lớn bọn họ trở thành cán bộ cộng sản ở nước họ.

Trong cuộc chiến với Mỹ, các tù binh Mỹ được sự quan tâm đặc biệt của hai nước đàn anh của cộng sản Hà-nội là Nga-xô và Trung-cộng. Đồng thời một số quan chức quân đội cộng sản Hà-nội cũng quan tâm đến lực lượng tù binh Mỹ. Vì đó là kho tài liệu phong phú về khoa học kỹ thuật hiện đại của Mỹ cả về lý luận lẫn ứng dụng, nhất là về công nghiệp chiến tranh và khoa học vũ trụ. Để thuyết phục các giới chức cộng sản khác, đương quyền khi ấy như Lê Duẩn, Tố Hữu (kẻ ra chủ trương mang tù binh Mỹ đi riễu phố và tổ chức cho nhân dân đánh và ném đá vào tù nhân nhằm nâng cao lòng căm thù đế quốc Mỹ !) v.v..., Viện sử học của cộng sản Hà-nội đã cùng với tổng cục chính trị cộng quân Hà-nội và Viện nghiên cứu khoa học công an của cộng sản, phối hợp tổ chức nhiều cuộc tọa đàm về đề tài "Các triều đại Việt Nam đã sử dụng hàng vàtù binh (chủ yếu là Tàu) như thế nào ?".

Nhiều chuyện hành lang lộ ra, cho biết một số tù binh Mỹ được đặc biệt ưu đãi - kể cả lấy vợ Việt Nam - nhưng bị quản thúc rất chặt chẽ và phải làm công tác nghiên cứu khoa học cho Tổng cục hậu cần cộng quân của tướng Đinh Đức Thiện; cho bộ chỉ huy binh chủng phòng không không quân của đại tá Phùng Thế Tài; cho viện khoa học của Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Đình Tứ, Vũ Đình Cự và Nguyễn Văn Đạo. Nhân dân khó mà phân biệt được, bởi họ đi xe hơi và ăn mặc như chuyên gia Nga. Cũng tin hành lang còn lộ ra là chính quyền Nga-xô và Trung-cộng đều làm sức ép về viện trợ để buộc cộng sản Hà-nội phải trao cho họ một số tù binh Mỹ nhằm khai thác và sử dụng về tình báo quân sự. Số được đưa qua Nga và Tàu lục địa "hình như" cũng được cho lấy vợ và đồng hóa, thay tên đổi họ luôn. Có những tin tức lộ ra còn đi xa hơn nữa là có một số tù binh Mỹ còn được trao cho cả Bắc-hàn và Cu-ba !(?)

"Không có lửa sao có khói". Cho nên đối chiếu vơí thói quen của cộng sản Hà-nội; với sự hoạt động tấp nập của các cơ quan khoa học của cộng sản Hà-nội; với các đoàn chuyên gia, giáo sư đủ loại từ Nga-xô và Trung-cộng lén lút sang Hà-nội nghiên cứu và khuân về nước đủ loại khí tài của Mỹ từ mảnh B.52 đến F.105E, đến F4H, đến giấy gây nhiễu radar v.v... và với sự bặt tăm của 837 tù binh Mỹ mà báo cáo của tướng Trần Văn Quang đã cung cấp cho trung ương cộng sản Nga-xô, cũng như sự có mặt của Fidel Castro tại Việt Nam vào cuối 1974, thì những tin lộ ngoài hành lang nói trên nhất định phải có phần chân thực.

Tuy nhiên cũng phải hiểu không hẳn hoàn toàn cả 837 tù binh Mỹ đều được "trọng dụng", mà chắc chắn có nhiều người bị tra tấn, hành hạ đến chết; bị thất vọng điên loạn mà chết; bị thủ tiêu vì có thể là nhân chứng về tội ác dã man của cộng sản Hà-nội v.v...

Dù gì gì đi nữa thì số phận của gần ngàn tù binh Mỹ - còn sống hay chết - cũng cần thiết phải được mọi người có lương tri quan tâm giải quyết thỏa đáng, nhất là chính phủ Mỹ và nhân dân Việt Nam yêu hòa bình, tự do và dân chủ.

K Ế T L U Ậ N



Vấn đề tù binh Mỹ, cũng như nhiều vấn đề quốc nội và quốc ngoại của Việt Nam, chỉ có thể được giải quyết thỏa đáng, lâu dài và vững bền khi mà ở Việt Nam có sự lãnh đạo của một chính quyền đa đảng, do nhân dân Việt Nam ở trong và ở ngoài nước thực sự tự do và dân chủ bầu ra, có sự giám sát và giúp đỡ của Liên hiệp Quốc.

Tháng 4-1993

Thời Sự "Nóng"





------------------------------------------

---------------------------------------------------------
Vân Anh -Ngày 1 tháng 10 Hà Nội Chính Thức Bán Nước Cho Bắc Kinh
----------------------------------------