Quá khứ (tội ác chống con người ) của phát xít Hungary bị công lý phán xét
Bị cáo Képíró Sándor, 97 tuổi, bị đưa ra tòa án Budapest ngày 5/5/11.
Reuters
Quá khứ phát xít của Hungary bị công lý phán xét
Bị cáo Képíró Sándor, 97 tuổi, bị đưa ra tòa án Budapest ngày 5/5/11.
Reuters
Việc phiên tòa xét xử ông Képíró được mở là một chiến thắng lớn đối với những người muốn truy lùng đến cùng những tên tội phạm chiến tranh, cho dù họ có ở bất cứ đâu và hiện ở bất cứ cương vị, lứa tuổi nào. Trong 5 năm liền, Trung tâm Simon Wiesenthal - một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Jerusalem, chuyên kiếm tìm những tội phạm chiến tranh và những kẻ sát hại dân Do Thái - đã đóng vai trò chính yếu trong việc phát hiện và đòi đưa Képíró ra trước vành móng ngựa tại Hungary.
Sau một thời gian chờ đợi khá dài và với nhiều động thái được dư luận quan tâm, gần đây nhất, tòa án Hungary đã tuyên bố Képíró có đủ năng lực hành vi để nhận biết được những gì đang diễn ra, và phiên tòa xử ông ta sẽ được tiếp tục trong 3 ngày tuần này. Khả năng là bản án sẽ được tuyên vào ngày 3/6 tới.
Quá khứ thân phát-xít của Hungary và những hệ lụy ?
Ðể hiểu được vấn đề lịch sử khá phức tạp và là nỗi đau kéo dài dai dẳng này của Hungary, cần trở về những năm sau Ðệ nhất Thế chiến. Là một quốc gia thất trận, những điều kiện của nền hòa bình tại Hungary đã được xác định tại Hội nghị Hòa bình Paris (kéo dài trong hai năm 1919-1920) mà không có sự tham dự của phe thua cuộc. Thông qua các hiệp ước hòa bình kết thúc Thế chiến, các cường quốc thắng trận muốn thiết lập một trật tự mới cho châu Âu và trong ván cờ ấy, Hungary là quốc gia chịu nhiều thiệt thòi nhất.
Vào ngày 4/6/1920 tại Lâu đài Đại Trianon (Versailles, Pháp), bản Hiệp ước Hòa bình được đặt bút ký, với những điều khoản hết sức bất công và nhục nhã đối với Vương quốc Hungary. Nền quân chủ Áo - Hungary bị giải thể và do đó, một phần rất đáng kể của lãnh thổ Hungary bị chuyển giao cho các nước láng giềng. Nước này bị mất 72% diện tích, hơn 84% dân số, 38% sản lượng công nghiệp và 67% tổng thu nhập quốc dân chỉ trong một khoảnh khắc!
Sự kiện Trianon khiến xã hội và công luận Hungary chấn động. Ngay khi hòa đàm vừa kết thúc, đã có những phong trào phản đối lớn trong và ngoài nước diễn ra với mục đích không chấp nhận nền hòa bình Trianon và tái lập nước “Ðại Hung”. Thời kỳ 1938-1941, với các quyết định đưa ra ở Vienna, cũng như sau khi Nam Tư bị Đức phát-xít xâm chiếm, Hungary được trao lại phân nửa diện tích đất đai bị cắt cho ngoại quốc, nhưng cái giá phải trả là nước này phải tham chiến bên quân đội Quốc xã.
Hệ lụy của sự hợp tác với nước Ðức phát-xít là chỉ trong vài tháng của đại nạn holocaust ở Hungary, đã có chừng 500 ngàn dân Do Thái Hungary thiệt mạng tại các trại tập trung và lò thiêu người. Ðiểm đặc biệt là ở Hungary, sự đày ải và diệt chủng sắc dân Do Thái đã diễn ra với sự “hợp tác” và ủng hộ hết sức nhiệt tình của chính quyền và lực lượng hiến binh nước này. Ðến nỗi Adolf Eichmann - một trong những đao phủ chính yếu của Holocaust (diệt chủng Do Thái) - đã phải khâm phục thừa nhận là bộ máy hành chính và hiến binh Hungary “chính xác và tỉ mỉ khủng khiếp, không kém gì của người Đức”.
Nhưng không chỉ dân Do Thái tại Hungary phải chịu hậu quả của Holocaust. Tại những vùng mà Hungary được nhận lại từ các nước láng giềng trong thời gian đó, đã xảy ra nhiều vụ thanh trừng trên cơ sở sắc tộc, mà hậu quả là hàng vạn người vô tội đã bị sát hại. Képíró bị cáo buộc là đã tham gia một trong những vụ thảm sát như thế, diễn ra tại thành phố Novi Sad trong ba ngày tháng Giêng năm 1942, khiến từ 3.300 đến 3.800 người, đa phần là dân Do Thái và Serbia, bị thiệt mạng.
Vụ thảm sát ở Novi Sad mà Képiro bị cáo buộc là đã tham gia tích cực ?
Cuộc thảm sát mang tên “những ngày lạnh”, được thực hiện để trả thù cho việc một vài hiến binh và quân nhân Hungary bị một nhóm du kích Serbia giết hại. Trên nguyên tắc, tất cả những ai không phải là người trong vùng, không được một ủy ban địa phương xác nhận là có quen biết, đều bị tử hình. Các nhóm hiến binh có nhiệm vụ dẫn độ những người có tên trong “danh sách đen” đến cho quân đội sát hại bằng cách bắn luôn xuống dòng Danube, khi đó đóng băng vì tiết trời lạnh giá.
Ngay sau khi xảy ra, cuộc thảm sát Novi Sad đã gây làn sóng bất bình lớn trong công luận quốc tế. Một cuộc điều tra lập tức được tiến hành để truy tìm những kẻ phải chịu trách nhiệm, và đến cuối năm 1943, Hungary đã mở một phiên tòa với 15 nghi can là các hiến binh và quân nhân bị coi là đã phạm tội sát hại cư dân vùng bị chiếm đóng. Những thủ phạm chính bị tuyên án tử hình và tù giam, nhưng bản án không được thực hiện vì một số bị can đã trốn chạy sang Ðức, số khác - trong đó có Képíró, bị án tù 10 năm - sau một thời gian ngắn ngồi tù, được tha bổng và trở lại quân ngũ.
Sau Thế chiến, một số thủ phạm trong cuộc thảm sát bị trao cho Nam Tư, và bị tử hình như những tội phạm chiến tranh. Tuy nhiên, Képíró đã kịp trốn chạy sang Áo, rồi từ đó sang Argentina vào năm 1948. Ở Hungary, vào năm 1946, ông ta từng bị Tòa án Nhân án tuyên án vắng mặt 14 năm tù giam và biên bản vụ án này, mới đây, vừa được Trung tâm Tưởng niệm Holocaust ở Budapest tìm lại được.
Sau khi Hungary thay đổi thể chế, Képíró hồi hương năm 1996 và sinh sống ở Budapest trong 10 năm liền như một người hưu trí mà không bị ai để ý đến, cho dù cái tên Képíró được xếp thứ ba trong danh sách những kẻ tội phạm chiến tranh bị Trung tâm Simon Wiesenthal truy lùng. Trung tâm này, vào năm 2006, khi được biết về nơi cư trú của Képíró, đã tố cáo ông ta trước cơ quan tư pháp Hungary. Năm 2007, đích thân người đứng đầu trung tâm, sử gia Efraim Zuroff đã sang Budapest và đến tận nhà Képíró chụp ảnh, để thúc đẩy Hungary mở phiên tòa xét xử.
Tháng 5-2011, sau rất nhiều nhùng nhằng về chính trị và tư pháp, phiên tòa xét xử Képíró được mở với sự quan tâm rất lớn của công luận. Ở tuổi 97, rất có thể Képíró là một trong những tên tội phạm chiến tranh cuối cùng bị tuyên án, nếu tội trạng ông ta được chứng tỏ (trong trường hợp đó, trên nguyên tắc, có thể bản án tù chung thân sẽ được tuyên). Cần nói thêm là từ giữa thập niên 70 tới nay, không một ai ở Hungary bị ra trước vành móng ngựa vì tội ác chiến tranh hoặc tội chống lại nhân dân, như trong trường hợp này.
Tại sao Hungary đến giờ vẫn không thể thanh toán được quá khứ thân phát-xít ? Riêng trong trường hợp Képíró thì tại sao phải chờ đến sau 5 năm mới mở được phiên tòa ?
Như đã nói ở trên, sự hợp tác của Hungary với nước Ðức phát-xít trong đệ nhị Thế chiến có cội nguồn từ mong muốn phục hồi và tái lập nước “Ðại Hung”, tức là Vương quốc Hungary lịch sử theo trạng thái cho đến đầu thế kỷ 20. Ngay đến ngày nay, ý nguyện giành lại được những phần đất bị mất do Hiệp định Hòa bình Trianon - mà người dân Hung cho là tấn thảm kịch lớn nhất của dân tộc Hungary trong 1.100 năm lịch sử - cũng vẫn còn khá mạnh ở một số cá nhân và nhóm theo chủ nghĩa dân tộc.
Những năm gần đây, với sự sa sút của liên minh Xã hội và Tự do, phe hữu và cực hữu lấn sân trên trường chính trị Hungary. Chủ nghĩa bài Do Thái, các xu hướng tân phát-xít chưa được đoạn tuyệt, đây đó lại xuất hiện. Các biểu hiện dân tộc chủ nghĩa được thể hiện trong nhiều quyết sách của nội các Orbán Viktor hiện tại, mà điển hình là việc trao quốc tịch cho mọi người gốc Hung hiện đang sống ở các quốc gia lân cận, bị tách khỏi “nước mẹ” do những biến cố chính trị thập niên 20-40 thế kỷ trước.
Trên cái nền ấy, cho dù Holocaust từng là bi kịch kinh hoàng của người Do Thái Hungary, cho dù nước này có mở một Bảo tàng Holocaust có những điểm đặc sắc độc nhất vô nhị trong khu vực, thì quá khứ thân phát-xít của Hungary đến nay vẫn chưa được sự đánh giá và nhìn nhận đồng nhất của giới nghiên cứu và các giai tầng trong cư dân. Ðiều đó cũng thể hiện trong phiên tòa xét xử Képíró: nhiều người cho rằng ông già 97 tuổi này vô tội và chính những ai muốn bới móc chuyện cũ để “bắt vạ” ông ta mới là kẻ sát nhân.
Ðây cũng là một trong những lý do khiến phải sau 5 năm, Hungary mới đưa được Képíró ra tòa. Bản thân bị cáo cho rằng mình vô tội, ông ta chỉ thực thi bổn phận là cùng các thuộc hạ kiểm tra và dẫn độ những người bị coi là có tội cho các đơn vị quân đội. Phe bảo vệ Képíró lý luận rằng, ông ta không ra lệnh tử hình, cũng không xả súng bắn bất cứ ai. Cùng lắm, ông chỉ không kiểm tra thật ngặt nghèo hoạt động của nhóm hiến binh mà ông ta là chỉ huy (đây cũng là tội danh khiến vào năm 1944, Képíró chỉ bị án tù giam 10 năm, nhưng sau ông đã được tha bổng).
Phản ứng của quốc tế và công luận trước việc thanh toán quá khứ thân phát-xít của Hungary ?
Tháng 2-2007, Ngoại trưởng Serbia Vuk Draskovic, trong chuyến đến thăm cộng đồng Do Thái ở Novi Sad trước chiến dịch tranh cử Quốc hội nước này - đã nói rằng chính quyền Hungary rất nên thực hiện những bổn phận của mình trong vụ Képíró, bởi lẽ không thể để con người này qua đời như một người tự do. Khả năng trao trả Képíró cho Serbia để nước này đưa ra tòa vì tội ác chiến tranh cũng đã được đề cập.
Ngoại trưởng Hungary thời đó, bà Göncz Kinga, trong chuyến công du Israel, cũng đã phải đối mặt với vấn đề khó xử này từ nước chủ nhà.
Sử gia Efraim Zuroff, Giám đốc Trung tâm Simon Wiesenthal thì cho rằng, những thống kê cho thấy vẫn có thể dùng phương tiện và sức mạnh của cơ quan tư pháp để xét xử những tội phạm chiến tranh phát-xít bởi lẽ trong 10 năm qua, đã có gần 100 bản án được đưa ra và nhiều tên tội phạm chiến tranh mới được phát hiện. Ông Zuroff cũng nhấn mạnh: trong nhiều trường hợp, thời gian dài đã trôi qua và tuổi tác của các nghi can không phải là vấn đề lớn nhất, mà điểm quan trọng là cần một nỗ lực chính trị.
Trung tâm Simon Wiesenthal muốn công luận tránh được cái nhìn sai trái, cho rằng không thể phát hiện, nhận dạng và xét xử những tội phạm chiến tranh sau ngần ấy năm. Chính vì vậy, từ nhiều năm nay, tổ chức này đã mở chiến dịch “Cơ hội cuối cùng” để tìm kiếm những tên tội phạm chiến tranh từ thời kỳ Ðệ nhị Thế chiến mà tới nay vẫn chưa sa vào vòng pháp luật hoặc chưa phải chịu hình phạt thích đáng. Trong số đó, thực sự, vì lý do tuổi tác quá cao, Képíró Sándor có thể là một trong những kẻ cuối cùng.
Trở lại trường hợp của Képíró, nhiều luật gia cho rằng hành vi của ông ta và đồng bọn - ngay ở vào thời điểm năm 1942 - cũng đã là tội ác chiến tranh, chống nhân dân. Theo một luật sư nổi tiếng của Hungary, ông Magyar György, nếu chứng tỏ được tội trạng của Képíró như trong cáo trạng, tòa án Hungary cần ra một bản án để nêu gương, nhằm đưa ra một thông điệp rằng những tên tội phạm chiến tranh không bao giờ có thể thoát khỏi hình phạt của xã hội, cho dù tuổi cao sức yếu thế nào đi nữa. Nghĩa là, tội ác chiến tranh, chống nhân loại không bao giờ hết thời hiệu!
Ðây cũng là quan điểm của một nhóm đông học sinh trung học đeo ngôi sao vàng 6 cánh trên áo (biểu tượng của sự nhục nhã và phân biệt đối xử với sắc dân Do Thái thời Ðệ nhị Thế chiến), đã đợi Képíró trước tòa nhà của Tòa án Thủ đô Budapest. Họ giương cao những tấm biểu ngữ bằng tiếng Hungary và Anh, cật vấn lương tâm ông ta, và thể hiện ý kiến bằng mọi giá, phải trừng trị cái ác, cho dù năm tháng đã trôi qua...
trước đây, mở lại vào hôm nay, 24/5 tại Budapest. Bị cáo là một cựu đại úy, bị buộc tội tham gia vào một vụ tàn sát dân Do Thái và Serbia vào năm 1942. Điểm đáng chú ý là nghi phạm chỉ bị đưa ra trước vành móng ngựa sau gần bảy thập niên không bị pháp luật nhòm ngó. Điều này phản ánh thái độ miễn cưỡng của chính quyền Hungary trong việc phê phán quá khứ phát-xít.
Việc phiên tòa xét xử ông Képíró được mở là một chiến thắng lớn đối với những người muốn truy lùng đến cùng những tên tội phạm chiến tranh, cho dù họ có ở bất cứ đâu và hiện ở bất cứ cương vị, lứa tuổi nào. Trong 5 năm liền, Trung tâm Simon Wiesenthal - một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Jerusalem, chuyên kiếm tìm những tội phạm chiến tranh và những kẻ sát hại dân Do Thái - đã đóng vai trò chính yếu trong việc phát hiện và đòi đưa Képíró ra trước vành móng ngựa tại Hungary.
Sau một thời gian chờ đợi khá dài và với nhiều động thái được dư luận quan tâm, gần đây nhất, tòa án Hungary đã tuyên bố Képíró có đủ năng lực hành vi để nhận biết được những gì đang diễn ra, và phiên tòa xử ông ta sẽ được tiếp tục trong 3 ngày tuần này. Khả năng là bản án sẽ được tuyên vào ngày 3/6 tới.
Quá khứ thân phát-xít của Hungary và những hệ lụy ?
Ðể hiểu được vấn đề lịch sử khá phức tạp và là nỗi đau kéo dài dai dẳng này của Hungary, cần trở về những năm sau Ðệ nhất Thế chiến. Là một quốc gia thất trận, những điều kiện của nền hòa bình tại Hungary đã được xác định tại Hội nghị Hòa bình Paris (kéo dài trong hai năm 1919-1920) mà không có sự tham dự của phe thua cuộc. Thông qua các hiệp ước hòa bình kết thúc Thế chiến, các cường quốc thắng trận muốn thiết lập một trật tự mới cho châu Âu và trong ván cờ ấy, Hungary là quốc gia chịu nhiều thiệt thòi nhất.
Vào ngày 4/6/1920 tại Lâu đài Đại Trianon (Versailles, Pháp), bản Hiệp ước Hòa bình được đặt bút ký, với những điều khoản hết sức bất công và nhục nhã đối với Vương quốc Hungary. Nền quân chủ Áo - Hungary bị giải thể và do đó, một phần rất đáng kể của lãnh thổ Hungary bị chuyển giao cho các nước láng giềng. Nước này bị mất 72% diện tích, hơn 84% dân số, 38% sản lượng công nghiệp và 67% tổng thu nhập quốc dân chỉ trong một khoảnh khắc!
Sự kiện Trianon khiến xã hội và công luận Hungary chấn động. Ngay khi hòa đàm vừa kết thúc, đã có những phong trào phản đối lớn trong và ngoài nước diễn ra với mục đích không chấp nhận nền hòa bình Trianon và tái lập nước “Ðại Hung”. Thời kỳ 1938-1941, với các quyết định đưa ra ở Vienna, cũng như sau khi Nam Tư bị Đức phát-xít xâm chiếm, Hungary được trao lại phân nửa diện tích đất đai bị cắt cho ngoại quốc, nhưng cái giá phải trả là nước này phải tham chiến bên quân đội Quốc xã.
Hệ lụy của sự hợp tác với nước Ðức phát-xít là chỉ trong vài tháng của đại nạn holocaust ở Hungary, đã có chừng 500 ngàn dân Do Thái Hungary thiệt mạng tại các trại tập trung và lò thiêu người. Ðiểm đặc biệt là ở Hungary, sự đày ải và diệt chủng sắc dân Do Thái đã diễn ra với sự “hợp tác” và ủng hộ hết sức nhiệt tình của chính quyền và lực lượng hiến binh nước này. Ðến nỗi Adolf Eichmann - một trong những đao phủ chính yếu của Holocaust (diệt chủng Do Thái) - đã phải khâm phục thừa nhận là bộ máy hành chính và hiến binh Hungary “chính xác và tỉ mỉ khủng khiếp, không kém gì của người Đức”.
Nhưng không chỉ dân Do Thái tại Hungary phải chịu hậu quả của Holocaust. Tại những vùng mà Hungary được nhận lại từ các nước láng giềng trong thời gian đó, đã xảy ra nhiều vụ thanh trừng trên cơ sở sắc tộc, mà hậu quả là hàng vạn người vô tội đã bị sát hại. Képíró bị cáo buộc là đã tham gia một trong những vụ thảm sát như thế, diễn ra tại thành phố Novi Sad trong ba ngày tháng Giêng năm 1942, khiến từ 3.300 đến 3.800 người, đa phần là dân Do Thái và Serbia, bị thiệt mạng.
Vụ thảm sát ở Novi Sad mà Képiro bị cáo buộc là đã tham gia tích cực ?
Cuộc thảm sát mang tên “những ngày lạnh”, được thực hiện để trả thù cho việc một vài hiến binh và quân nhân Hungary bị một nhóm du kích Serbia giết hại. Trên nguyên tắc, tất cả những ai không phải là người trong vùng, không được một ủy ban địa phương xác nhận là có quen biết, đều bị tử hình. Các nhóm hiến binh có nhiệm vụ dẫn độ những người có tên trong “danh sách đen” đến cho quân đội sát hại bằng cách bắn luôn xuống dòng Danube, khi đó đóng băng vì tiết trời lạnh giá.
Ngay sau khi xảy ra, cuộc thảm sát Novi Sad đã gây làn sóng bất bình lớn trong công luận quốc tế. Một cuộc điều tra lập tức được tiến hành để truy tìm những kẻ phải chịu trách nhiệm, và đến cuối năm 1943, Hungary đã mở một phiên tòa với 15 nghi can là các hiến binh và quân nhân bị coi là đã phạm tội sát hại cư dân vùng bị chiếm đóng. Những thủ phạm chính bị tuyên án tử hình và tù giam, nhưng bản án không được thực hiện vì một số bị can đã trốn chạy sang Ðức, số khác - trong đó có Képíró, bị án tù 10 năm - sau một thời gian ngắn ngồi tù, được tha bổng và trở lại quân ngũ.
Sau Thế chiến, một số thủ phạm trong cuộc thảm sát bị trao cho Nam Tư, và bị tử hình như những tội phạm chiến tranh. Tuy nhiên, Képíró đã kịp trốn chạy sang Áo, rồi từ đó sang Argentina vào năm 1948. Ở Hungary, vào năm 1946, ông ta từng bị Tòa án Nhân án tuyên án vắng mặt 14 năm tù giam và biên bản vụ án này, mới đây, vừa được Trung tâm Tưởng niệm Holocaust ở Budapest tìm lại được.
Sau khi Hungary thay đổi thể chế, Képíró hồi hương năm 1996 và sinh sống ở Budapest trong 10 năm liền như một người hưu trí mà không bị ai để ý đến, cho dù cái tên Képíró được xếp thứ ba trong danh sách những kẻ tội phạm chiến tranh bị Trung tâm Simon Wiesenthal truy lùng. Trung tâm này, vào năm 2006, khi được biết về nơi cư trú của Képíró, đã tố cáo ông ta trước cơ quan tư pháp Hungary. Năm 2007, đích thân người đứng đầu trung tâm, sử gia Efraim Zuroff đã sang Budapest và đến tận nhà Képíró chụp ảnh, để thúc đẩy Hungary mở phiên tòa xét xử.
Tháng 5-2011, sau rất nhiều nhùng nhằng về chính trị và tư pháp, phiên tòa xét xử Képíró được mở với sự quan tâm rất lớn của công luận. Ở tuổi 97, rất có thể Képíró là một trong những tên tội phạm chiến tranh cuối cùng bị tuyên án, nếu tội trạng ông ta được chứng tỏ (trong trường hợp đó, trên nguyên tắc, có thể bản án tù chung thân sẽ được tuyên). Cần nói thêm là từ giữa thập niên 70 tới nay, không một ai ở Hungary bị ra trước vành móng ngựa vì tội ác chiến tranh hoặc tội chống lại nhân dân, như trong trường hợp này.
Tại sao Hungary đến giờ vẫn không thể thanh toán được quá khứ thân phát-xít ? Riêng trong trường hợp Képíró thì tại sao phải chờ đến sau 5 năm mới mở được phiên tòa ?
Như đã nói ở trên, sự hợp tác của Hungary với nước Ðức phát-xít trong đệ nhị Thế chiến có cội nguồn từ mong muốn phục hồi và tái lập nước “Ðại Hung”, tức là Vương quốc Hungary lịch sử theo trạng thái cho đến đầu thế kỷ 20. Ngay đến ngày nay, ý nguyện giành lại được những phần đất bị mất do Hiệp định Hòa bình Trianon - mà người dân Hung cho là tấn thảm kịch lớn nhất của dân tộc Hungary trong 1.100 năm lịch sử - cũng vẫn còn khá mạnh ở một số cá nhân và nhóm theo chủ nghĩa dân tộc.
Những năm gần đây, với sự sa sút của liên minh Xã hội và Tự do, phe hữu và cực hữu lấn sân trên trường chính trị Hungary. Chủ nghĩa bài Do Thái, các xu hướng tân phát-xít chưa được đoạn tuyệt, đây đó lại xuất hiện. Các biểu hiện dân tộc chủ nghĩa được thể hiện trong nhiều quyết sách của nội các Orbán Viktor hiện tại, mà điển hình là việc trao quốc tịch cho mọi người gốc Hung hiện đang sống ở các quốc gia lân cận, bị tách khỏi “nước mẹ” do những biến cố chính trị thập niên 20-40 thế kỷ trước.
Trên cái nền ấy, cho dù Holocaust từng là bi kịch kinh hoàng của người Do Thái Hungary, cho dù nước này có mở một Bảo tàng Holocaust có những điểm đặc sắc độc nhất vô nhị trong khu vực, thì quá khứ thân phát-xít của Hungary đến nay vẫn chưa được sự đánh giá và nhìn nhận đồng nhất của giới nghiên cứu và các giai tầng trong cư dân. Ðiều đó cũng thể hiện trong phiên tòa xét xử Képíró: nhiều người cho rằng ông già 97 tuổi này vô tội và chính những ai muốn bới móc chuyện cũ để “bắt vạ” ông ta mới là kẻ sát nhân.
Ðây cũng là một trong những lý do khiến phải sau 5 năm, Hungary mới đưa được Képíró ra tòa. Bản thân bị cáo cho rằng mình vô tội, ông ta chỉ thực thi bổn phận là cùng các thuộc hạ kiểm tra và dẫn độ những người bị coi là có tội cho các đơn vị quân đội. Phe bảo vệ Képíró lý luận rằng, ông ta không ra lệnh tử hình, cũng không xả súng bắn bất cứ ai. Cùng lắm, ông chỉ không kiểm tra thật ngặt nghèo hoạt động của nhóm hiến binh mà ông ta là chỉ huy (đây cũng là tội danh khiến vào năm 1944, Képíró chỉ bị án tù giam 10 năm, nhưng sau ông đã được tha bổng).
Phản ứng của quốc tế và công luận trước việc thanh toán quá khứ thân phát-xít của Hungary ?
Tháng 2-2007, Ngoại trưởng Serbia Vuk Draskovic, trong chuyến đến thăm cộng đồng Do Thái ở Novi Sad trước chiến dịch tranh cử Quốc hội nước này - đã nói rằng chính quyền Hungary rất nên thực hiện những bổn phận của mình trong vụ Képíró, bởi lẽ không thể để con người này qua đời như một người tự do. Khả năng trao trả Képíró cho Serbia để nước này đưa ra tòa vì tội ác chiến tranh cũng đã được đề cập.
Ngoại trưởng Hungary thời đó, bà Göncz Kinga, trong chuyến công du Israel, cũng đã phải đối mặt với vấn đề khó xử này từ nước chủ nhà.
Sử gia Efraim Zuroff, Giám đốc Trung tâm Simon Wiesenthal thì cho rằng, những thống kê cho thấy vẫn có thể dùng phương tiện và sức mạnh của cơ quan tư pháp để xét xử những tội phạm chiến tranh phát-xít bởi lẽ trong 10 năm qua, đã có gần 100 bản án được đưa ra và nhiều tên tội phạm chiến tranh mới được phát hiện. Ông Zuroff cũng nhấn mạnh: trong nhiều trường hợp, thời gian dài đã trôi qua và tuổi tác của các nghi can không phải là vấn đề lớn nhất, mà điểm quan trọng là cần một nỗ lực chính trị.
Trung tâm Simon Wiesenthal muốn công luận tránh được cái nhìn sai trái, cho rằng không thể phát hiện, nhận dạng và xét xử những tội phạm chiến tranh sau ngần ấy năm. Chính vì vậy, từ nhiều năm nay, tổ chức này đã mở chiến dịch “Cơ hội cuối cùng” để tìm kiếm những tên tội phạm chiến tranh từ thời kỳ Ðệ nhị Thế chiến mà tới nay vẫn chưa sa vào vòng pháp luật hoặc chưa phải chịu hình phạt thích đáng. Trong số đó, thực sự, vì lý do tuổi tác quá cao, Képíró Sándor có thể là một trong những kẻ cuối cùng.
Trở lại trường hợp của Képíró, nhiều luật gia cho rằng hành vi của ông ta và đồng bọn - ngay ở vào thời điểm năm 1942 - cũng đã là tội ác chiến tranh, chống nhân dân. Theo một luật sư nổi tiếng của Hungary, ông Magyar György, nếu chứng tỏ được tội trạng của Képíró như trong cáo trạng, tòa án Hungary cần ra một bản án để nêu gương, nhằm đưa ra một thông điệp rằng những tên tội phạm chiến tranh không bao giờ có thể thoát khỏi hình phạt của xã hội, cho dù tuổi cao sức yếu thế nào đi nữa. Nghĩa là, tội ác chiến tranh, chống nhân loại không bao giờ hết thời hiệu!
Ðây cũng là quan điểm của một nhóm đông học sinh trung học đeo ngôi sao vàng 6 cánh trên áo (biểu tượng của sự nhục nhã và phân biệt đối xử với sắc dân Do Thái thời Ðệ nhị Thế chiến), đã đợi Képíró trước tòa nhà của Tòa án Thủ đô Budapest. Họ giương cao những tấm biểu ngữ bằng tiếng Hungary và Anh, cật vấn lương tâm ông ta, và thể hiện ý kiến bằng mọi giá, phải trừng trị cái ác, cho dù năm tháng đã trôi qua...
No comments:
Post a Comment