Chú rể gù lưng và cô dâu môi sứt
Việt Thường
Xưa và…
Việt Nam có câu chuyện về "Chú rể gù lưng và cô dâu môi sứt". Chẳng là ở một làng kia, có một nhà giàu có một cô con gái bị sứt môi, như môi thỏ vậy. Nếu chọn rể theo kiểu "môn đăng hộ đối" thì chắc cô gái phải chết già trong cô đơn. Nhưng trò đời, hễ có tiền là tự nhiên có kẻ đến tán tụng và bày mưu tính kế giùm. Cho nên, có một mụ mối, dò biết nỗi khổ tâm của vợ chồng nhà giàu nọ, bèn áo khăn tề chỉnh, đến hầu chuyện mà rằng:
Thừa biết mình đâu có nhân đức, vì làm giàu, có quyền là do lừa đảo, trộm cắp mà nên ông này, bà nọ. Bởi vậy, khi nghe mụ mối nói như thế, hai vợ chồng nhà giàu sầm nét mặt lại. Nhưng mụ mối, vốn cũng là loại lưu manh có hạng, nên tinh ý biết ngay, vội chuyển giọng :
- Vì thế hôm nay đến hầu chuyện hai cụ, trước là thăm hai cụ cho thỏa lòng ao ước, sau là xin báo một tin mừng…
Nói đến đấy, mụ mối giả vờ ngừng lại, uống nước để xem "con mồi" có đớp câu không. Nhưng vợ chồng nhà giàu nọ, vốn ĐẠI LƯU MANH, nên vẫn tỉnh khô. Biết là đụng đầu đại cao thủ, mụ mối vào đề ngay :
- Dạ, mừng lắm ạ, vì nghe tiếng hai cụ có một tiểu thư như vàng ngọc, nên một gia đình quyền quý ở tỉnh bên nhờ con sang đánh tiếng xin được thông gia.
Nghe đúng nỗi đau, hai vợ chồng nhà giàu nọ nhìn nhau, thở dài. Bà vợ nói :
· Chắc bà ở xa nên không rõ đấy thôi. Chúng tôi chỉ có một mụn gái. Cháu rất ngoan nhưng có… tật từ nhỏ.
· Dạ, có sao đâu. Có tài có tật là chuyện thường. Bà nhà giàu lắc đầu :
· Tôi muốn nói là… nói là… cháu bị… sứt môi.
Biết mình đang ở thượng phong, mụ mối gật gù :
· Chúng con có biết chuyện, nhưng vì mến đức của hai cụ nên mạnh dạn đến "xin hiến kế".
Nghe thế, vợ chồng nhà giàu tươi nét mặt :
· Kế như thế nào ?
Mụ mối tủm tỉm :
· Hai cụ cho tiểu thư ăn mặc thật đẹp, vàng ngọc đeo cho lóa mắt. Khi nhà trai sang xem mặt, cho tiểu thư cầm quạt trầm che miệng thì họ chỉ tưởng là tiểu thư bẽn lẽn chứ đâu biết tiểu thư sứt môi ạ.
Nghe xong, vợ chồng nhà giàu cùng đứng dậy nắm tay mụ mối khen ngợi và quát người làm mở tiệc đãi khách. Khi tiễn mụ mối về lại còn lót tay ít quà đáng giá. Lại nói ở tỉnh bên, vợ chồng một viên quan hưu trí, có cậu con trai út bị bệnh thuở nhỏ và bị gù lưng từ đó. Vì cái nhược đấy mà khó kén vợ.
Là một tên lưu manh, sống bằng nghề mối mai lừa gạt, mụ mối nắm được hai cảnh ngộ, hai nhược điểm khác nhau, thế là mụ ra tay khai thác. Cho nên sau khi ở nhà giàu nọ ra về, hôm sau mụ đến ngay nhà viên quan hưu trí và cũng lại "hiến kế" :
· Bẩm cụ lớn, nhà gái là con một của gia đình phú hộ, rất nết na, từ bé đến lớn chưa bao giờ đi ra khỏi nhà, được về nâng khăn, sửa túi cho công tử thì thật là may mắn lắm ạ.
Viên quan thở dài :
· Công tử nhà tôi hiền lành, giỏi giang, nhưng hiềm nỗi thuở nhỏ gặp bệnh hiểm nghèo nên bị gù lưng, sợ nhà gái chê thì không tiện.
Mụ mối ỏn ẻn :
· Xin cụ lớn yên lòng, con xin "hiến một kế". Khi đến xem mặt nhà gái, cụ lớn cho công tử cưỡi ngựa đi ngang qua sân rồi cho công tử lui để phụ mẫu đôi bên nói chuyện thì ai mà biết là công tử bị gù lưng cho được. Đến khi ván đã đóng thuyền dù biết cũng đã muộn.
Và, quả đúng như mụ mối dự đoán. Nghĩa là khi đón dâu và làm lễ hợp cẩn thì đôi bên mới biết là chú rể bị gù, cô dâu bị… sứt. Và, đúng là biết THÌ ĐÃ MUỘN. Sự kết hợp thành công của cặp vợ chồng đó chính là do mụ mối biết lợi dụng CHỖ YẾU của hai bên để tìm cách CHE ĐẬY CHỖ NHƯỢC khiến cho tất cả ĐỀU BỊ LỪA. Cặp vợ chồng "gù, sứt" đó có hạnh phúc hay không thì chuyện không nói đến. Nhưng điều RÕ RÀNG LÀ KẺ THỦ LỢI CẢ HAI PHÍA LÀ MỤ MỐI.
Nay thì…
Xưa thì có MỤ MỐI và hiện nay, trong cộng đồng người Việt tỵ nạn mafia đỏ ra sinh sống ở nước ngoài, cùng chạy ăn theo những người tỵ nạn đích thực, có một số ANH MỐI. Họ không làm cái việc mai mối hôn nhân mà MAI MỐI cái gọi là GIAO LƯU VĂN HÓA… (một chiều). Nếu xưa kia, chuyện chú rể có điểm nhược là GÙ LƯNG, thì nay điểm nhược của chúng ta là THIẾU TÀI LIỆU TRUNG THỰC, nhất là thế hệ trẻ, đặc biệt thế hệ được sinh ra ở nước ngoài từ sau tháng 4-1975. Ngay nhân dân trong nước, nhất là thanh thiếu niên, ngày ngày còn dùng toàn TÀI LIỆU GIẢ thì làm sao đồ XUẤT KHẨU RA HẢI NGOẠI TRÁNH KHỎI HÀNG GIẢ.
Còn cái nhược của mafia đỏ là nếu cho MỐI ở trong nước ra thì bị ăn cà chua, trứng thối nên đề ra trò "giao lưu văn hóa" nhưng không thể tự thực hiện được. Cho nên MỐI HẢI NGOẠI nhào dzô.
Bài này xin đơn cử một THỨ GIẢ mà ANH MỐI Ở HẢI NGOẠI đã khai thác sự thiếu vốn thực của người Việt chúng ta, nhất là giới trẻ, để HƯỞNG LỢI. Đó là câu chuyện về chàng thi sỹ từ cái tên XUÂN DIỆU vì nhiễm HIV cộng sản dương tính mà thành XUÂN TÓC ĐỎ .
Cứ theo kiểu ANH MỐI giới thiệu thì người Việt ở hải ngoại chỉ biết đến Xuân Diệu như là một nhà thơ trữ tình ngoại hạng, thuộc phong cách mới của thời tiền chiến – nghĩa là trước 1945.
THƠ MỚI ở Việt Nam những năm 1945 trở về trước không phải là một hiện tượng thuần nhất, nên trong cuốn "Thi nhân Việt Nam", tác giả Hoài Thanh đã phân chia thành các nhóm gọi là XÓM và Xuân Diệu được xếp trong XÓM "Huy – Xuân" (Huy Cận và Xuân Diệu), là những người làm thơ mới chỉ sử dụng những yếu tố tượng trưng. Giai đoạn trước 1944 thì quả Xuân Diệu là một thi sỹ có những bài thơ tình nóng bỏng, được giới trẻ yêu thích. Nhưng, thật đáng buồn cho những người Việt Nam yêu thơ, thật thiệt thòi cho kho tàng thơ hiện đại Việt Nam mà KẺ THIỆT THÒI và ĐÁNG BUỒN nhất chính là Xuân Diệu. Kể từ cuối năm 1944,sau khi bị cộng dảng chi phối thì NHÀ THƠ TRỮ TÌNH XUÂN DIỆU ĐÃ THOÁI HÓA CẢ TRONG SÁNG TÁC LẪN ĐỜI THƯỜNG.
Cũng như Cù Huy Cận, Xuân Diệu được đầu lãnh mafia đỏ cài vào nằm vùng trong đảng Dân Chủ Việt Nam, do Dương Đức Hiền sáng lập với những tên tuổi ở miền Nam như Huỳnh Tấn Phát, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiểng và ở phía Bắc có những gương mặt như luật gia Vũ Đình Hòe, nhà nghiên cứu văn học Đỗ Đức Dục, bác sỹ Nguyễn Tấn Di Trọng, các kỹ sư Trần Đăng Khoa, Nghiêm Xuân Yêm v.v… và tiếng nói của đảng Dân Chủ là tờ báo có tên : ĐỘC LẬP.
Sau khi quân Nhật làm cuộc đảo chính chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, tháng 3-1945, thì quân Nhật trả chính quyền lại cho hoàng đế Bảo Đại. Học giả Trần Trọng Kim được chỉ định lập chính phủ. Hà-nội được đổi tên thành Hoàng Diệu (vị tổng đốc tuẩn tiết khi Hà-nội bị thất thủ vào tay thực dân Pháp, hệt như sự tuẩn tiết của các vị tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai v.v… trong năm 1975, khi binh lính mafia đỏ hoàn thành cuộc xâm lược toàn bộ nước Việt Nam); hầu hết ở các tỉnh thành, các đường phố đều bỏ tên do thực dân Pháp đặt mà mang tên các nhân vật lịch sử của Việt Nam đã được khẳng định, thí dụ như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Ngô Thì Nhậm, Chu Văn An, Duy Tân, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Ký Con, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Tuệ Tĩnh v.v…; lệnh tha ra khỏi nhà tù của thực dân Pháp tất cả các tù, không phân biệt xu hướng chính trị, đồng thời thu hồi lệnh truy tố các tù chính trị đang phải sống lẫn trốn do thực dân Pháp ban hành; chọn bài "Việt Nam Minh Châu Trời Đông" của nhạc sỹ Hùng Lân làm quốc ca; bài "Chiêu Hồn Tử Sỹ" của Lưu Hữu Phước để tưởng nhớ tất cả nhân dân, chiến sỹ Việt Nam đã vì Tổ-quốc mà hy sinh; tự do ra báo, tự do họp hành, đi lại và đặc biệt là lệnh truy tố tham quan, ô lại.
Ngay khi nhậm chức thủ tướng, cụ Trần Trọng Kim đã tâu lên hoàng Đế Bảo Đại rằng cụ đã nhiều tuổi, không có kinh nghiệm làm chính trị, không đảng phái nên cụ chỉ xin tạm nhận sự bàn giao của tụi Nhật rồi sẽ trao lại chính phủ cho đại diện các đảng phái. Vì thế mới có cái chính phủ Liên Hiệp ra đời với đủ thành phần lúc đó là :
· Chủ tịch : Hồ Chí Minh (khi ấy Hồ không nhận là cộng sản nên hắn đã cho giải tán đảng cộng sản mà hạ xuống thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx, do Trường Chinh cầm đầu);
· Phó chủ tịch : Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội);
· Bộ trưởng ngoại giao : Nguyễn Tường Tam (Đại Việt)
· Bộ trưởng quốc phòng : Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc Dân Đảng);
· Bộ trưởng giáo dục : Nguyễn Văn Tố (nhân sỹ);
· Bộ trưởng nội vụ : Huỳnh Thúc Kháng (nhân sỹ);
· Bộ trưởng y tế : Vũ Đình Tụng (nhân sỹ);
· Bộ trưởng thanh niên : luật sư Phan Anh (thành viên cũ của chính phủ Trần Trọng Kim);
· Bộ trưởng tuyên truyền : Trần Huy Liệu (Việt Nam độc lập đồng minh);
· Bộ trưởng nông nghiệp : Cù Huy Cận (đảng dân Chủ Việt Nam);
· Bộ trưởng không bộ : Hoàng Minh Giám (đảng Xã Hội Việt Nam) và v.v…
Hoàng đế Bảo Đại, sau lễ thoái vị để chính phủ Trần Trọng Kim bàn giao chính quyền cho các đảng phái, trở thành cố vấn Vĩnh Thụy của chính phủ Liên Hiệp; Phạm Khắc Hòe, nguyên bí thư của hoàng đế Bảo Đại, được giữ chức Đổng lý văn phòng Bộ Nội-vụ.
Hội đồng chính phủ Liên Hiệp còn cử ra ban cố vấn, gồm 10 người là các vị : Đức Cha Lê Hữu Từ, Bùi Bằng Đoàn (cựu bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim), Ngô Tử Hạ, Lê Tại, Bùi Kỷ (hiệu trưởng trường trung học tư thục Louis Pasteur, ở Hà-nội) v.v…
Có thể nói là hầu hết thành viên chính phủ là người không đảng phái. Ngay cái gọi là tổ chức Việt Minh (viết tắt của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh) thoạt kỳ thủy cũng là sự LIÊN KẾT của nhiều tổ chức chính trị, nhưng rồi bị tên Việt gian Hồ Chí Minh và tay chân đã thâm nhập và lũng đoạn BIẾN THÀNH CÔNG CỤ CỦA MAFIA ĐỎ.
Chính lá thư tên Việt gian Hồ Chí Minh gửi tướng Tàu (Tưởng) Trần Tu Hòa, đề ngày 19-12-1945, cũng thừa nhận rằng Việt Minh là mặt trận của một số tổ chức, đảng phái, (tài liệu còn lưu tại Bảo tàng Hồ Việt gian ở Hà-nội – VT).
Cùng với những việc, như đã nêu ở trên của chính phủ Trần Trọng Kim, thì MỘT VIỆC CỰC KỲ QUAN TRỌNG NỮA LÀ SỰ RA ĐỜI LÁ QUỐC KỲ CỦA VIỆT NAM : QUẺ LY MÀU ĐỎ NẰM TRÊN NỀN VÀNG. Trên cơ sở lá cờ đó đã ra đời lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ hiện nay nhằm qui tụ những người Việt Nam chống tập đoàn mafia đỏ Việt Nam tiếm quyền. (Lá cờ mà nhờ đó đã qui tụ người Việt tự do đấu tranh buộc mafia đỏ phải thả viên tiến sỹ quản trị (chứ không phải chính trị như họ Đoàn nhập nhằng) Đoàn Viết Hoạt để khi được TỰ DO thì Hoạt khước từ đứng dưới lá cờ đã CỨU MẠNG và ĐÁNH BÓNG cho họ Đoàn… Vô ƠN!!!
Thâm nhập, tiến tới lũng đoạn Mặt Trận Việt Minh mà trước hết là đưa được cái cờ "nền đỏ sao vàng" làm cờ của mặt trận. Rồi dựa vào việc mặt trận là của "một số tổ chức đảng phái (có cả Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng) để biến lá "cờ đỏ sao vàng" thành quốc kỳ. Cái chuyện nhập nhằng này là kết quả của âm mưu lưu manh chính trị Hồ Việt gian và sự "nhẹ dạ" của một số người có trách nhiệm lúc đó trong chính quyền lâm thời, vì đa phần là nhân sỹ không đảng phái, chưa có kinh nghiệm nhận diện Hồ Việt-gian và bè lũ.
Đánh tráo lá "cờ đỏ sao vàng" vào vị trí của "cờ vàng ba sọc quẻ ly" là một bước của sự thoán đoạt. Sau đó lại thay thế quốc thiều "Việt Nam minh châu trời Đông" bằng "Tiến quân ca" của Văn Cao (khi ấy là một nhạc sỹ tên tuổi, chưa gia nhập tổ chức mafia đỏ, là tác giả những bài đương thời được ưa thích như Thiên Thai, Suối Mơ v.v…). Tiến tới ÂM THẦM bỏ cái tên Hoàng Diệu để lấy lại cái tên Hà-nội và v.v… Tất cả đều là bài bản của tên Việt gian, bài tây "ba lá" Hồ Chí Minh, nhằm xóa bỏ giai đoạn lịch sử Trần Trọng Kim, che giấu sự thật về SỰ KẾ THỪA CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM, dựng ra HUYỀN THOẠI của cái gọi là CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945)!!!
Chính vào lúc "tranh tối tranh sáng đó" của lịch sử Việt Nam thì XUÂN DIỆU đã lộ cái mầm lưu manh XUÂN TÓC ĐỎ. Hắn tự nguyện để cho mafia đỏ lợi dụng "cái uy tín" của hắn, NHẤT LÀ TRONG GIỚI THANH NIÊN BỒNG BỘT, để viết một bài gọi là THƠ mang tên "NGỌN QUỐC KỲ", ca ngợi lá "cờ đỏ sao vàng", đăng trên tờ báo Độc Lập của đảng Dân Chủ. Chính Xuân Diệu đã góp phần quan trọng trong việc tạo cơ hội cho HIV cộng sản dương tính là "lá cờ màu đỏ máu và ngôi sao vàng bệnh hoạn của sốt rét ác tính" vào cơ thể xã hội Việt Nam, mà hậu quả tai hại còn kéo dài từ đó đến nay.
Cũng chính Xuân Diệu là tên bút nô đầu tiên của mafia đỏ CÔNG KHAI CA NGỢI cái gọi là CHUYÊN CHÍNH (tức độc tài khát máu của mafia đỏ) cả nói lẫn thơ. Trong hồi ký mang tên "Mài sắt nên kim", Xuân Diệu viết : "Bây giờ đã 29 năm rồi. Tôi vẫn nhớ, càng nhớ cuộc tái sinh của mình… Ôi, chính quyền, chính quyền, chính quyền của chúng ta… Riêng tôi, tôi liên hệ cái vui sướng có chính quyền, có CHUYÊN CHÍNH ấy (chúng tôi nhấn mạnh – VT) với niềm hạnh phúc của tình yêu thứ nhất."
Thế là CHÍNH QUYỀN và CHUYÊN CHÍNH đã có ngay từ đầu trong bút ký, hồi ký và thơ của Xuân Diệu. Sợ không?!!! (Chẳng biết mấy ANH MỐI HẢI NGOẠI có biết không để dùng quạt trầm và ngựa mà che đậy như MỤ MỐI ngày xưa ?). Những năm 1956 – 1957, ở miền Bắc Việt Nam, văn nghệ sỹ, trí thức, sinh viên đứng lên trong phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, thì Xuân Diệu, trong hồi ký của hắn có kể rằng :
"… Và có một đêm, chừng hai, ba giờ sáng, tôi đứng nghe gió, nghe ngực trái đất đập và nghe đâu đó có ai mở mắt, ai khóc thầm, có ai ban chiều ăn chẳng no lòng, cái đói dậy như trẻ con khóc thét, có ai nhức nhối những vết thương lở loét… Bỗng điện thoại reo. Tiếng đầu giây, anh Trần Quốc Hoàn (lúc bấy giờ phụ trách an ninh) thăm hỏi sức khỏe và hỏi nhà thơ đã có thơ cho cuộc đấu tranh này chưa ? Nhà thơ loay hoay định "khai thác" ở nhà lãnh đạo mặt trận bảo vệ, nhưng anh Hoàn như hiểu ý, cười nhẹ nói gọn một câu :"Vô sản chuyên chính là hồn thiêng dân tộc đã có trong Ngọn Quốc Kỳ của nhà thơ đấy". Thế là bài thơ "Vô sản chuyên chính" cái khởi điểm bắt đầu lại ở những câu thơ cuối :
"Tôi đã từng làm thơ về gió về mây
Tôi làm thơ về tư tưởng đêm nay
Bọn chúng cười ta làm thơ chính trị
Nếu hình thức có hơi non một tý
Chúng vui mừng la ó vỗ tay ran
Mặc chúng kêu rêu lá rụng hoa tàn
Tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính".
Cái gọi là "bài thơ" nói trên được đăng ở tờ Nhân Dân – cơ quan ngôn luận của mafia đỏ, vào số ngày đầu thứ hai tháng 8-1957.
Hơn 30 năm qua rồi, đến tận bây giờ, trong lúc tập đoàn mafia đỏ ò è hợp ca bài chèo "xóa bỏ hận thù", "hòa giải – hòa hợp", "cùng nhau xây dựng đất nước", "khúc ruột ngàn trùng" và gợi nhớ "quê hương" v.v…, thì lũ bút nô của chúng, loại bút nô đàn em của Xuân Diệu vẫn lên tiếng ca ngợi tên "Xuân tóc đỏ" trong thơ này là "một nhà thơ cách mạng, một công dân chân chính". Rồi trân trọng BÌNH những thơ sau đây của Xuân Diệu :
< Bọn hổ báo ta ghè nanh, ta bẻ vuốt
Những luật điên cuồng ta buộc sẽ thông minh
Luật chiến tranh thay bằng luật hòa bình
Bọn rồng đất dần dần ta tóm gáy
VÔ SẢN TÀI TÌNH, CHUYÊN CHÍNH LÀ THẾ ĐẤY!
Con ngựa bất kham
Ta khớp quai hàm…"
Đọc những giòng trên mà gọi là THƠ, xin lỗi : BUỒN ÓI !
Ấy thế mà có người hỏi Xuân Diệu rằng :"bài thơ ‘tư tưởng’ ấy có đầy đủ chất liệu nghệ thuật không?" Thì, giống hệt Hồ việt gian viết sách tự "bốc thơm", Xuân Diệu đã thản nhiên trả lời :
"… Thơ cũng là tư tưởng, tâm hồn, còn là thể xác nữa chứ. Phải có những câu thơ mà ngay thân xác của nó cũng đáng nhớ. Thơ đi vào ý là thơ giáo huấn. Ý phải vật chất hóa thành tứ. Tứ đổi ra thành hình tượng. Hình tượng trong "Vô sản chuyên chính" khá rõ. Nhiều lần người nghe đòi tôi bình bài thơ ấy. Họ thích không phải vì "chiếu cố". Tài giỏi là anh hùng đi nữa, nhưng phải là đàn bà thì người ta mới cưới làm vợ chứ. Tính nữ là tiêu chuẩn của vợ, cũng như tính thơ là tiêu chuẩn của thơ…"
Và, Xuân Diệu nhấn mạnh :
"BÀI THƠ ‘VÔ SẢN CHUYÊN CHÍNH’ ĐẢM BẢO HOÀN TOÀN TÍNH THƠ, TÍNH THI SỸ."
Đúng là chỉ có "tư tưởng Hồ Chí Minh" mới đủ mặt thớt tự bốc thơm hệt như cảnh "khỉ soi gương nhăn mặt… cười"!
Và, trước khi đi lao động cải tạo, ở Âm-ty với họ Hồ và các đầu lãnh mafia đỏ khác, một tuần, Xuân Diệu có ý viết một tập sách "Về nghề làm thơ" cho LỚP TRẺ với tâm niệm rất BÚT NÔ MAFIA ĐỎ là :
"Tôi đã từng làm thơ về mây gió
Tôi sẽ còn làm thơ về sen ngó với đào tơ
Hẹn sớm mong chiều tôi vẫn sẽ làm thơ
NHƯNG HƠN CẢ XƯA KIA, HƠN CẢ BAO GIỜ
TÔI MUỐN LÀM BÀI THƠ VỀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN."
Không biết ANH MỐI HẢI NGOẠI đã "nghiên cứu" những bài thơ loại này của Xuân Diệu chưa ?
Nhân đây, vì Xuân Diệu đã từng bị cụ Phan Khôi, một học giả hàng đầu đã thấy rõ chất mafia của tập đoàn cộng sản, bật mí câu chuyện Xuân Diệu và Cù Huy Cận "BÊ-ĐÊ" với nhau, để thấy tại sao Xuân Diệu lại lập luận "thừa thải" và so với hiện tại còn là lạc hậu khi hắn nói :
"Tính nữ là tiêu chuẩn của vợ, cũng như tính thơ là tiêu chuẩn của thơ…"
Chắc để chống lại cái "bật mí" của cụ Phan Khôi, nên…
Xuân Diệu lấy… vợ
Thời kỳ ở Việt Bắc, vì sống tập thể nên ai ai cũng biết chuyện Xuân Diệu và Cù Huy Cận ăn ngủ với nhau "đúng kiểu vợ chồng". Đến thời Nhân Văn – Giai Phẩm, bọn Xuân Diệu – Cù Huy Cận cũng đi bài bản của Hồ việt gian và các đầu nậu mafia chóp bu, theo kiểu các cụ xưa thường nói là:"Chân mình những cứt bết bê còn cầm bó đuốc mà chê chân người", nên bị cụ Phan Khôi mắng cho ở giữa đám đông. Cả hai đứa bẻ mặt. Xuân Diệu bèn đem em gái gả cho Cù Huy Cận làm vợ, và bản thân cũng đánh tiếng với "đảng" (tức mafia đỏ) là muốn lấy vợ để… chứng tỏ cụ Phan Khôi mắng… ẩu.
Một bút nô trung thành như Xuân Diệu thì làm sao bọn Hồ việt gian chẳng thưởng công. Và, một nữ phóng viên ban văn-xã (tức văn hóa và xã hội) của báo Nhân Dân được chọn để "nâng khăn sửa túi" cho Xuân Diệu, tên B.D. (xin phép được viết tắt). Tầng lớp trẻ ở trong và ngoài Việt Nam hiện nay chắc không thể hình dung được rằng, trước 4-1975, ở miền Bắc Việt Nam do mafia đỏ đặt ách cai trị thì nô lệ mọi giới, được gọi bằng uyển ngữ "cán bộ công nhân viên", lấy vợ lấy chồng không do tự chọn hoặc do cha mẹ cưới hỏi, mà do chủ nô (tức tập đoàn mafia đỏ Hồ việt gian) gán ghép và cho phép. Chính vì không được "tìm hiểu" mà tin tưởng ở "tổ chức" (một cách gọi khác về lũ đầu nậu mafia đỏ các cấp) nên việc Xuân Diệu lấy vợ thành "tiếu lâm" một thời ở Hà-nội.
Đại diện bên chú rể, Xuân Diệu, là giáo sư Đặng Thái Mai (bố vợ của Võ Nguyên Giáp), lúc đó là Chủ tịch hội liên hiệp văn học nghệ thuật (là tổ chức của các loại bút nô).
Đại diện bên cô dâu, B.D., là Hoàng Tùng, dự khuyết trung ương mafia đỏ kiêm tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan nói láo của mafia đỏ).
Đám cưới thật là "đông và vui", hiện diện đủ mọi loại mồm loa mép giải, mọi chức sắc ác ôn của tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ. Cuộc vui kéo đến gần nửa đêm và cặp vợ chồng mới, Xuân Diệu – B.D., được đưa bằng xe Volga, sản xuất tại Nga xô, chỉ giành cho cấp trung ương mafia đỏ, đưa về tận nhà ở đầu phố Cột Cờ, Hà-nội. Vợ chồng làm lễ động phòng chưa được một giờ đồng hồ thì, cô dâu B.D. lu loa khóc, áo quần xốc xếch, đầu tóc rối bù nhào ra cổng sắt bỏ chạy về phía vườn hoa Canh Nông (trước sứ quán Trung cộng).
Từ lầu trên (vì ở chung một vi-la), cặp vợ chồng son Cù Huy Cận – XN (em gái Xuân Diệu) nhào xuống xem chuyện gì. Em gái Xuân Diệu mặt tái mét hỏi ông anh dồn dập. Xuân Diệu lúc lắc cái đầu, thở phì phì như bò tót ở sân đấu. Chỉ riêng Cù Huy Cận là "tủm tỉm cười" vì biết tỏng tòng tong chuyện "con mẹ hàng lươn". Họ Cù bảo vợ đi lên gác ngủ một mình, rồi vào phòng Xuân Diệu, đóng chặt cửa phòng lại "an ủi" nỗi… "vô hạnh" của người bạn thơ mới cùng chung một… XÓM (như sự phân chia của Hoài Thanh). Phải vài năm sau, em gái Xuân Diệu xin ly hôn cùng Cù Huy Cận thì cái "đoạn phim" của giờ Xuân Diệu "động phòng" và cách "an ủi" của Cù Huy Cận mới được bật mí cho một số ít người thân và người có trách nhiệm xử lý vụ ly hôn.
Còn về cô dâu B.D., đêm tân hôn tháo chạy ra vườn hoa Canh Nông, khóc cho đến sáng thì về báo Nhân Dân, làm đơn xin ly hôn đưa cho tòa án khu Hoàn Kiếm. Sau đó B.D. chuyển qua ngành điện ảnh.
Chuyện đồn ầm cả Hà-nội, chỉ tội cho bà B.D., một dạng độc đáo của nạn nhân dưới ách mafia đỏ, còn bị đưa tên vào mấy câu đối của "tay chơi Hà-nội", không tiện chép ra ở đây.
Người ta kể rằng, lúc nhận đơn xin ly hôn của B.D., mụ chánh án tòa án khu Hoàn Kiếm, vốn xuất thân bán rau ở chợ Bắc qua nên có thèm biết luật đâu. Đánh vần mãi không xong và chẳng hiểu tại sao Xuân Diệu… "móc tay" mà B.D. lại phải xin… ly hôn. May làm sao, có "tay chơi Hà-nội" ghé qua, mới dùng đôi câu đối của Trạng Quỳnh để giải thích rằng :
"Vũ cậy tài vũ ra vũ múa
Vũ bị mưa vũ ướt cả lông"
đối lại :
"Thị vào chầu thị đứng thị trông
Thị cũng muốn nhưng không có… ấy!"
Bấy giờ mụ Chánh án mới đỏ mặt cười lên hưng hức và bèn ký giấy cho "LY HÔN HỎA TỐC".
Nhờ đó dân Hà-nội lại có thêm bài Thơ Ghế Đá như sau :
"Nhà thơ "chuyên chính" thật là gân guốc
Bao sợi gân ra tuốt thành thơ
Khi cơn lên ngồi đứng ngẩn ngơ
Lòng quằn quại nhưng chỉ biết sờ cùng mó
Bởi cái "gân cần" thì quá nhỏ, đành bỏ xó
Bằng ngón út trẻ thơ thì làm được cái chó gì
Đêm tân hôn Xuân Diệu ngồi khóc tỷ ty
B.D. ơi ! về đi em hỡi
Nâng tay nghề anh xin chừa :"May ngón tóc"!"
("May ngón tóc" là câu chữ nói lái của Trạng Quỳnh dạy cho quan hoạn trong "Tiếu lâm Việt Nam).
Trò đời thật trớ trêu. Trong khi tại Việt Nam, nhiều cây bút đi võ lập lờ nước đôi trong VIẾT để LÁCH, khiến người đọc hiểu là khen cũng được, mà hiểu là chê cũng được, thì, ở hải ngoại, mấy ANH MỐI, CHỊ MỐI vẫn đam mê trò "theo voi ăn bã mía". Thí dụ, cây bút Trúc Chi ở quốc nội, trong khi tán tụng Xuân Diệu thì lại nhắc đến câu chuyện :
Xuân Diệu bị đánh
Đó là chuyện của cái thời năm 1945, người Hà-nội suốt ngày biểu tình tuần hành. Một lần, đoàn biểu tình của những người dân Hà-nội ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng đi ngang qua bờ Hồ Gươm ở góc đường Tràng Tiền, Hà-nội; Xuân Diệu đứng ở đó bày đặt chống lại đám đông, gào lên "đả đảo". Thế là mấy người trong đoàn biểu tình tóm cổ Xuân Diệu, bợp tai cho mấy cái và quẳng xe đạp của hắn xuống Hồ Gươm. Xuân Diệu đành ôm mặt lủi thủi vớt xe đạp lên rồi cúp đuôi dzọt về nhà.
Từ ngày nhập bọn với lũ mafia đỏ, Xuân Diệu đã bị lưu manh hóa. Mặc dù được bọn đầu lãnh mafia đỏ đánh bóng bằng cái danh "Viện sỹ thống Viện hàn lâm"… nhưng là của Đông Đức, ngoẻo từ những năm 1990, nhưng làm sao bút nô Xuân Diệu có thể BÓNG được. Thuốc đánh bóng của Đông Đức vốn là đồ giả, còn Xuân Diệu thì "xỉn" quá xá. Chỉ nội cái chuyện ăn cắp công trình sưu tập thơ về Hồ việt gian, của Hạ Bá Nền, đủ cho thấy diện mạo thực của Xuân Diệu. Hắn bị "Tay chơi Hà-nội" CHƠI cho nhiều vố đau mà đành nén đau câm miệng hến.
Không c… mà dám lấy vợ, quả là con đẻ của tập đoàn mafia đỏ Hồ việt gian, thuộc loại TIỂU LIỀU.
Ăn cắp công trình nghiên cứu của cháu Hoàng Quốc Việt (tức Hạ Bá Cang), một mafia đỏ loại gộc là TRUNG LIỀU.
Và, làm thơ "TƯ TƯỞNG" ca ngợi "CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN" thì quả là… ĐẠI LIỀU.
Bệnh LIỀU THEO VOI ĂN BÃ MÍA đã nhiễm vào phủ tạng các ANH, CHỊ MỐI ở hải ngoại rồi, mau tìm thuốc chữa chạy kẻo muộn. Đừng lặp lại cái miểng "phản chiến" bằng võ "giao lưu văn hóa" như kiểu Trịnh Công Sơn xưa kia mà tiếng xấu để đời, nếu có chết thì con em cũng mang tiếng con em "phản bội", "phản chiến"!!!
No comments:
Post a Comment