Lá Cờ Thấm Máu Phục Quốc Quân Triều Giang
Lá cờ thấm máu phục quốc quân
Thư viện/Bảo tàng viện Lyndon Johnson đã nhận được một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà do gia đình ông Lộc Nguyễn, một người Mỹ gốc Việt đang sinh sống tại Austin gửi tặng. Lá cờ vàng 3 sọc đỏ được làm bằng loại vải mềm. có màu vàng lạt hơn những lá cờ khác vì thời gian. Trên lá cờ còn có những vệt máu thâm đen.
Theo ông Lộc Nguyễn, thì đây là cờ được treo trên đỉnh của một tiền đồn tại tỉnh Đà Nẵng cho đến giờ cuối cùng trước khi tiền đồn bị thất thủ vào tháng 3 năm 1975. Vì lý do bảo mật để tránh sự nguy hiểm cho một số người liên hệ còn đang sống tại VN, ông Lộc không thể nói rõ hơn về địa điểm của tiền đồn cũng như tên tuổi của những người liên hệ. Cha ông, vị sĩ quan chỉ huy tiền đồn đã không chịu đầu hàng. Ông và một số binh sĩ của ông đã trốn vào rừng để tiếp tục chiến đấu. Ông đã mang lá cờ này theo toán phục quốc quân vào trong rừng. Từ tháng 3 năm 1975 cho tới năm 1978, lá cờ này đã theo toán phục quốc quân ẩn sâu trong rừng. Khi liên hệ được với người liên lạc là mẹ ông Lộc, cha ông đã gửi gấm cho mẹ ông lá cờ với lời nhắn nhủ người con trai duy nhất trong gia đình rằng; ông Lộc hãy gìn giữ lá cờ máu này và hãy tìm mọi cách để đưa lá cờ ra khỏi VN để nói cho toàn thế giới biết về sự đau thương của VN dưới sự cai trị hà khắc của CS, và sự chiến đấu quyết không đầu hàng của những chiến sĩ phục quốc quân.
Do đó, từ năm 1978 tới năm 1994, lá cờ đã được giầu dưới giường của mẹ ông Lộc. Trước khi chết, mẹ của ông Lộc đã cho con trai biết về lai lịch lá cờ và cái chết của người cha. Cũng theo lời trăn trối của mẹ ông Lộc, cha ông cho bà biết vết máu trên lá cờ là của một trong những chiến sĩ phục quốc quân. Bà không hỏi rõ là vết máu cuả chiến sĩ phục quốc từ vết thương trong một trận giao tranh hay là do bị thương trong lúc leo lên cột cờ để hạ lá cờ xuống trước khi đem vào rừng cùng với toán quân.
Cái chết tức tưởi của một phục quốc quân với lời trăn trối: Dùng lá cờ để nới lên chính nghiã của Nam VN
Toán quân sau đó đã bị theo dõi và bị bắt vào năm 1982. Cha ông Lộc đã vào tù cùng với các chiến hữu của ông, nhưng lá cờ có thấm máu của người chiến sĩ phục quốc đã được con trai ông vâng lời cha, trong một chuyến về thăm VN, bất chấp nguy hiểm, ông Lộc đã bí mật chuyển sang Mỹ vào năm 1998.
Mẹ ông Lộc không được biết những gì xảy ra sau đó cho những chiến sĩ phục quốc quân, kể cả ngày chết cuả chồng. Ông Lộc cho biết từ khì cha ông bị bắt vào năm 1982, mẹ ông hàng tháng đi thăm nuôi, nhưng không bao giờ đưọc gặp chồng. Mỗi khi đến trại tù, những người cai quản trại tù bảo bà đưa đồ tiếp tế cho họ để họ chuyển cho chồng bà và bà ra về. Bà đã đi thăm nuôi chồng trong tăm tối như thế trong suốt 7 năm trời. Mãi đến năm 1989, một người quen cùng trong trại tù với chồng bà đã nhắn cho bà biết chồng bà đã bị đánh đập và bị hành hạ cho tới chết trong tù đã nhiều năm qua. Lúc đó, người chỉ huy của toán phục quốc quân này đang ở tuổi trên 60 và ông đã chiến đấu trên 30 năm cho lý tưởng tự do, dân chủ của đất nước, dân tộc.
Năm 2004, qua sự giới thiệu của người bạn là một cựu chiến binh Mỹ, ông Patrick Reily, ông Lộc đã tặng lá cờ cho Thư viện Lyndon Johnson với ước nguyện hoàn thành được lời trăn trối cuối cùng của người cha. Đó là dùng lá cờ để nói cho cả thế giói biết đến sự hà khắc của chế độ CSVN và sự chiến đầu anh dũng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Ông Lộc Nguyễn hiện lập gia đình với bà Thu Minh Nguyễn và có 3 người con gái và một con trai. Ông bà đã xin phép cho các con nghỉ học một buổi để các cháu có thể được nhìn lá cờ mà ông bà nội cuả các cháu đã dùng mạng sống cuả họ để gìn giữ nó.
Hiện Viện Bảo tàng Lyndon Johnson chưa có chưong trình trưng bày lá cờ này trước công chúng, nhưng nếu có khách thăm viếng yêu cầu, thư viện sẽ đưa ra để cho khách được chiêm ngưỡng. Để tiện việc sắp xếp, xin gọi điện thoại trước cho quản thủ thư viện đang có trách nhiệm gìn giữ lá cờ, ông Michael Mc. Donald, điện thoại số: (512) 721-0199. Hoặc Email về địa chi: michael.macdonald@nara.gov.
| Thời Chinh Chiến / 34 Năm Nhìn Lại - Tháng Tư Đen 1975 / 26 Tháng Tư 2009 Monday, March 23, 2009 NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI LỬA BINH
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của cộng sản quốc tế với đạo quân tay sai tiền kích của chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt cộng miền Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đã rất mờ nhạt đằng sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ thì hình ảnh những người chị vô danh ấy đã dần hiện rõ trong một ánh sáng diệu kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh và ngợi ca. Ðó là những người lính không có vũ khí, không số quân, không tiền lương, không cả lương thực hành quân, nhưng là những người lính tỏa hào quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngã thắt ngặt nhất, mà đã góp phần đem chiến thắng quyết định trên chiến trường. Ðó là NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đã cùng chồng dấn mình trong cơn bão lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước cả các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai biết được. Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ phủ trên chiếc quan tài được ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ, không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy điệu ai oán. Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui rúc trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những những cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt của đêm. Ăn uống thì đạm bạc đến không có gì đạm bạc hơn được nữa. Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất nước mắm hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà có thể tìm thấy mọc đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh dồng lầy. Cả gia đình người lính Ðịa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần chung quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của mình. Không than thở, không ta thán và vui lòng với niềm hạnh phúc mong manh của mình. Một năm 365 ngày, mười năm, hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những người chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc là gì. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ì ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức nguyện cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn ra sao, thì chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy. CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ÐẤT GÒ CÔNG Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công việc nào cũng biểu hiện hình ảnh và đức tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đình, trông nom dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn. Thứ hai, khi quân giặc đã thấy dẫy đầy ngoài những vòng rào kẽm gai, thì những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đã chiến đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Ðình này thì ít nhất cũng có những chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm. Ðêm 2.10.1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong một đêm Việt cộng đã tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân số thật lớn. Ðồn Giồng Ðình thuộc tỉnh Gò Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính cộng. Ðây là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Ðình nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một Trung Ðội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và thâm độc, lực lượng cộng quân đã bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông bà lão già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là những người “giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, thì còn từ ngữ nào, hình dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của cộng sản nữa không. Ðúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu Bích, đã mở cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Ðình, với sự tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, vì với quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên thì cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Ðình. Trên lý thuyết, thì giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật cộng quân đã chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đã chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Ðình. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả lời là không, không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của các anh, mà còn là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng Ðình sẽ không thể thực hiện được, nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh. Ðồn Giồng Ðình nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh Gò Công, do một Trung Ðội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Ðồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay súng mà đã đủ, nên tất cả những người vợ lính trong đồn đều đã được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đã được nhân lên gấp đôi. Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất, những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ bò dưới lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu tìm cái sống trong khi chồng và cha của họ sắp ngã gục ngoài chiến hào. Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, thì tình trạng bên trong đồn Giồng Ðình đã khá là bi đát. Ðã có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ còn 8 Nghĩa Quân còn chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu. Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn Giồng Ðình. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một lực lượng quá đông của địch. Nhìn ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đã đã tràn vào đen ngòm như những con quái vật hung hãn. Anh Hùng chỉ còn trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt cộng bắn vào quá gần, các em không còn khóc được nữa mà đã nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng thì thào : - Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh bò về giữ. Lô cốt mất là đồn mình mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào thì... thì... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được. Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn vợ con, rồi nhìn về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đã yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đã kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Ðồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đã xảy ra cho đồng đội. Nhưng nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, thì coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đã hò hét ngay sát bên rồi : - Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh. Anh Hùng nhìn chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong lòng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con mình. Hai đứa nhỏ chẳng biết còn sống hay đã chết. Anh phóng mình xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái bóng đen đã quá gần. Anh Hùng đã bò vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng. Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đã đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nỗ dòn dã ngay sát tuyến phòng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đã điểm. Chị Thàng sẽ làm gì với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong lòng : “ Chỉ còn một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái gì sẽ xảy đến cho vợ con mình, vì dưới chân lô cốt anh tử thủ đã đông nghẹt quân giặc. Ðủ mọi thứ loại súng nỗ chát chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc là mình đã nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa. Cuộc chiến đấu đã kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đã phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Ðình. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2.10.1965. Tình hình đã quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, quyết định thà hy sinh còn hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn : - Hãy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đã thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hãy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi... bắn.... Sau tiếng gọi thống thiết của người Ðồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu Gò Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa tiếng súng nổ dòn, dường như người ta nghe âm thanh rì rì của máy bay. Không Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đã xuất kích. Ðến đây thì Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đã có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Ðình đã đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch đã kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối. Khi ánh hừng đông của một ngày mới đã lên, hai Ðại Ðội Ðịa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng Gò Công chỉ huy đã đến và tổ chức bung quân ra lục soát. Quân cộng đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Ðồn Trưởng Thi, Ðồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đã kháng cự mãnh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt cộng này mang trên mình rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này. Anh Thi và anh Hùng đã bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương lén trốn về được đã cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn ? Vì nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết vì nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục của thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu. Ðó là lý do giải thích tại sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người Thương Phế binh cộng sản trên đường phố. Nhưng đối với anh Hùng, thì tất cả những gì mà Viêt cộng đã trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt., quân cộng đã rút đi, thì anh đã như một người điên lao mình ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đã một mình một súng trấn giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng bò vào khúc hào mà anh đã nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ thì chị Thàng cũng đi vào cõi chết, vì chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt. Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đã được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào lòng và gần như ngất xỉu. Nhưng khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của mình, anh Hùng thấy trong lòng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đã cứu sống được tất cả những thương binh Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đã đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Ðình. Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, thì chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Ðình đều sẽ chết hết. Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người còn sống, những người vợ lính khác đã gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẽo chiến trường, chị Thạch Thị Ðịnh, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta, những công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xã hội, nhưng là những người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người lính từ Miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia đình. Nếu anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, thì anh mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. Còn nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, thì anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đã sinh ra anh. Ðầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đã không thể chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đã nai nịt tề chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn bò lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn dò đường. Ðêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái lổ đó, vì ở đó chính là cái miệng hầm chốt của địch. Ðến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đã reo hò trương Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đã trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của những người lính trận. Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt thòi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui lòng với những gì mình có. Một góc hầm tối tăm, một chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái chén sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của những người vợ lính. Chị Thàng đã chết đi, anh linh của chị cùng hai cháu bé đã thăng thiên lên cõi vĩnh hằng, nhưng những người còn sống cùng thời với chị, cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ CAO CẢ PHẠM THỊ THÀNG. Vì tên chị đã được trân trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam chống cộng sản quốc tế và Hà Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và của lịch sử hình thành nhân con người. AMRENG, NGƯỜI NỮ CHIẾN SĨ CAO NGUYÊN Quân cộng sản hành quân trên vùng cao nguyên thường khinh rẻ và húng hiếp các sắc dân Thượng rất thậm tệ. Chúng bắt trai tráng đi dân công, thậm chí cho bổ sung vào những đơn vị Thượng cộng, người làng thì bị ép buộc đóng góp lương thực, lúa gạo. Chúng dùng muối, là thứ tối cần của người dân miền cao, để đổi chác một cách rất bất lợi cho người Thượng. Người Thượng sống vất vả quanh năm, chỉ trông cậy vào những mảnh đất rừng khai phá để trồng trọt chút hoa màu hay trồng lúa rẫy, không đói đã là may lắm rồi, có còn đâu dư dả để cung phụng cho bọn phỉ cộng. Có nhiều trường hợp cả làng trong rừng sâu chịu không nỗi cảnh áp bức, giết chóc, đã kéo nhau ra quận hay tỉnh để xin nương náu với người Kinh. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lập Bộ Phát Triễn Sắc Tộc để giải quyết những vấn đề của người thiểu số. Hàng trăm trại tiếp cư tị nạn cộng sản đã được thiết lập để đón tiếp đồng bào Thượng và giúp đỡ đồng bào tạo dựng cuộc sống mới. Ðất canh tác được cấp phát vô điều kiện cho đồng bào Thượng tị nạn cộng sản. Thông thường thì mỗi gia đình thiên tai hay tị nạn đều được cấp phát 10 bao xi măng và 20 tấm tôn để cất lại một căn nhà nhỏ. Một nước nhỏ, nghèo là Việt Nam Cộng Hòa, quanh năm chiến tranh, ngân khoản thiếu thốn, mà đã cắn răng gồng gánh giúp đỡ hàng triệu người đồng bào bất hạnh của mình. Không phải “Lá lành đùm lá rách nữa”, mà là “Lá rách đùm lá nát”. Ðã vậy mà thôi đâu, những làng định cư nhỏ bé và nghèo nàn ấy vừa được dựng lên chưa được bao lâu, thì Việt cộng đã tràn về đốt phá tan hoang. Những chiếc lá rách nát lại cắn răng san sẻ cho nhau những gì mình có. Dưới mắt cộng sản, thì những người dân chạy về phía chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa xin được che chở và giúp đỡ, đều mang cái tội tày trời là “dân ngụy”, là “phản động”, dù có bắn bỏ hay đốt cháy nhà cửa của họ cũng là chuyện trừng phạt đương nhiên của điều mà chúng gọi là cuộc “cách mạng giải phóng”. Với bản chất là một lũ cướp chuyên nghiệp và man rợ, cộng sản Hà Nội hiện nay không bao giờ từ bỏ cơ hội chiếm đoạt đất khẩn hoang của người Thượng. Chúng chờ cho các sắc tộc Thượng khai phá rừng tạo dựng nên thành những vùng sinh sống màu mỡ trên những tỉnh cao nguyên, là chúng kiếm chuyện cứớp đoạt một cách trắng trợn ngay, nại lý do đất đai thuộc về quyền quản lý của nhà nước, người dân không có quyền sỡ hữu. Mặt khác, chúng áp dụng hình thái thực dân, cho di chuyển dân Kinh gốc Miền Bắc vào ở trên đất mà người Thượng đã sinh sống từ ngàn năm, lấn dần, lấn dần, người Thượng kém thế phải lùi mãi vào tận rừng sâu,ở chỗ chỉ có nước độc, bệnh hoạn và đói kém. Ðã thế mà cộng sản nào chịu buông tha, chúng vẫn cứ cho phép những người gọi là di dân tràn vào như vết dầu loang, để đồng bào Thượng chịu không nỗi phải chạy qua đất Miên xin tị nạn. Ðây là một tiến trình có chủ mưu, có sách lược để tiêu diệt dần mòn dân Thượng. Chúng ta có thể thấy ngay rằng, những người di dân Miền Bắc đã không biết rằng mình đang được rải ra làm phên dậu phòng thủ dọc theo dãy biên thùy Trường Sơn, án ngữ con đường đổ xuống đồng bằng duyên hải, nếu có một đạo quân đánh sang từ đất Lào và Miên. Cũng tốt, cái phên dậu đó giống như con dao hai lưỡi, rồi cũng có một ngày những đồng bào di dân nghèo Miền Bắc đó sẽ trở thành một lực lượng mạnh có khả năng thọc sâu mũi dao vào tận tim của bọn cộng sản để tiễn chúng xuống tận đáy địa ngục. Tức nước thì có lúc cũng phải vỡ bờ. Ngày 12.4.2004, nhiều chục ngàn dân Thượng của các sắc tộc sinh sống trong những tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac, Phước Long, Bình Long đã kéo vào những thành phố tỉnh lỵ để hình thành một cuộc phản kháng bất bạo động, phản đối cộng sản Hà Nội đàn áp đức tin đạo Tin Lành, chiếm đoạt đất đai và quyền sống căn bản của người Thượng. Dưới mắt cộng sản, dù chỉ là một biểu hiện phản đối nhỏ cũng đã được gán cho cái tội phản động, tội chết, chứ đừng nói gì đến những cuộc tập trung đông đảo như vậy. Hàng sư đoàn bộ binh của cộng sản đã được điều động lên phối hợp với công an đàn áp dã man cuộc tập trung. Hàng trăm đồng bào Thượng đã bị bắn chết, những người bị thương bị đem vào cô lập trong bệnh viện nhà nước, không ai có thể vào thăm viếng, kể cả những phóng viên và những nhà ngoại giao nước ngoài. Ngày đầu xuân Tân Hợi 1971, trên miền cao nguyên của Quân Khu II, trong chiến dịch quân sự mà cộng sản gọi là Cao Ðiểm Tân Hợi nhằm quấy phá những tỉnh biên thùy đã không thực hiện được. Có thể bởi hậu quả của những cuộc hành quân Tây chinh vượt biên Cửu Long của Quân Ðoàn IV, Toàn Thắng của Quân Ðoàn III và Bình Tây của Quân Ðoàn II trong năm 1970 đã gây tổn thất nặng ở những kho tiếp tế hậu cần của cộng sản, nên chúng khó thể đủ sức mở được những mặt trận lớn như mong muốn. Ðêm 31.1.1971, lúc 3 giờ sáng, một lực lượng cộng quân tấn công vị trí của Ðại Ðội 838 Ðịa Phương Quân tại làng Plei Kênh Săn thuộc tỉnh Pleiku.. Cuộc tấn công đã rất sớm bị thảm bại vì quân địch đã không thể ngờ rằng, có những người vợ lính cũng đã chiến đấu dũng mãnh như thế nào. Ðại Ðội 838 Ðịa Phương Quân đa số chiến sĩ là người dân tộc Thượng, là những chiến sĩ sinh ra và lớn lên ở giữa núi rừng cao nguyên, đã hun đúc các anh trở thành những con người cứng rắn như những tảng đá khổng lồ trên triền dãy Trường Sơn. Người Thượng quen sống kiếp du mục du canh, nên khi người lính Thượng Ðịa Phương Quân đóng đồn ở đâu thì vợ con của các anh cũng đi theo và nhanh chóng thích ứng với môi trường cùng cuộc sống mới ở nơi đó. Tuy là phụ nữ, nhưng những người đàn bà Tây nguyên dẻo dai không kém gì người đàn ông Thượng. Vai mang gùi nặng trên lưng, chân trần chai sạn vì đá cứng và gai nhọn của núi rừng, cùng hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt, bất cứ một người phụ nữ Thượng nào cũng đã được thiên nhiên rèn luyện nên thành một mẫu người khỏe mạnh, rắn rỏi, nhưng vẫn giữ được những dường nét mềm mại tràn đầy mạch sống. Cho nên khi cuộc chiến đấu nổ ra, thì những người đàn bà đó đã rất nhanh chóng trở thành những người nữ binh hăng hái cầm súng đánh địch. Một trong những người chị đó là chị Ksor Amreng, vợ của Binh Nhứt Kpa Dan. Anh chị Dan và Amreng đều là người sắc tộc Djarai, sinh quán ở quận Phú Túc, tỉnh Phú Bổn. Từ sau khi thành hôn, anh Dan nhập ngũ, thì chị Amreng cũng đã theo chồng lên sinh sống trong những tiền đồn hẻo lánh ở biên giới trong quận Phú Nhơn, tỉnh Pleiku, những địa danh thật xa lạ với chị : Queng Mep, Plei Kênh Săn. Khi quân cộng sản Bắc Việt nổ súng tấn công Plei Kênh Săn, chị Amreng đã vững vàng trong tư thế phụ xạ thủ đại liên cho chồng. Khẩu đại liên M60 nằm phía sau những lổ châu mai nhỏ đã bị giới hạn rất nhiều khu vực tác xạ, anh Dan quyết định dời khẩu đại liên sang một vị trí khác có xạ trường rộng lớn và bao quát hơn. Trong lúc chị Amreng chạy đi chạy lại để khiêng những thùng đạn đại liên sang vị trí mới, thì có ba tên Ðặc Công Việt cộng đã nhào vào đánh cận chiến cới anh Dan. Anh Dan thật dũng cảm, như một con beo ở rừng xanh, bằng tay không anh đã vật lộn với chúng mà không nao núng. Chị Amreng vừa vác một thùng đạn đến, quát bảo anh Dan tránh ra xa. Hiểu ý vợ, anh Dan lăn một vòng, một trái lựu đạn M26 từ trong tay chị Amreng được ném tới. Ba tên Ðặc Công chưa kịp phản ứng, thì một tiếng nổ chát chúa đã đốn gục chúng xuống ngay bên cạnh đường giao thông hào. Khẩu đại liên M60 trong tay đôi vợ chồng Dan và Amreng đã bắt đầu nổ dòn dã ngăn chận tất cả những cuộc tấn công biển người của địch vào đồn. Anh Dan đang say mùi thuốc súng, anh đã không để ý nhiều tên Ðặc Công khác đã bò vào gần khẩu đại liên để mở cuộc cận chiến lần nữa. Nhưng chúng không biết rằng người nữ binh vóc dáng nhỏ bé với khuôn mặt hiền lành như một em bé đã rất cảnh giác. Ba trái lựu đạn M26 đã được chị quăng ra rất chính xác vào những cái bóng đen đang bò lổn nhổn. Giữa tiếng súng nổ ầm ầm, chị Amreng đã có thể nghe thấy tiếng kêu gào thảm thiết của những lính địch trúng phải lựu đạn của chị. Ðến lúc này thì anh Kpa Dan chợt nhận ra rằng mình đã bị thương, chị Amreng lập tức trở thành xạ thủ chính, anh Dan lùi qua một bên làm xạ thủ phụ cho chị. Hào hùng không kém gì những đấng nam nhi, người nữ chiến sĩ ấy đã cùng với khẩu M60 đốn ngã hàng loạt cuộc tấn công của giặc. Sinh mạng của cái đồn nhỏ Plei Kênh Săn phần lớn trông cậy vào khẩu đại liên. Nói một cách chính xác, toàn tiền đồn cậy nhờ vào đôi bàn tay nhỏ nhắn của một cô gái mà ngày thường rất hiền hòa và ít nói này. Khi ánh bình minh lên, giặc chấp nhận thua cuộc và đã rút đi, chiến trường đã hoàn toàn im tiếng súng, lũ chim rừng sau một đêm kinh hoàng đã ríu rít hát ca trên cành lá đón chào một ngày mới. Tin chiến thắng của Plei Kênh Săn đã bay về đến Pleiku và cái tên Ksor Amreng thật dịu dàng và thật đẹp ấy đã được người dân thành phố gọi là buồn muôn thuở này nhắc nhở nhiều. Kinh lẫn Thượng, đồng bào Pleiku đã chung góp gửi đến chị Amreng và Ðại Ðội 838 Ðịa Phương Quân nhiều tặng phẩm và tiền thưởng. Thiếu Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Ðoàn II & Quân Khu II đã đích thân bay trực thăng đến Plei Kênh Săn trân trọng trao gắn cho người lính không số quân Amreng chiếc huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh, một vinh dự hiếm có dành cho một người dân sự . Tấm gương chiến đấu của chị Ksor Amreng là một trong nhiều tấm gương thầm lặng còn chưa được biết của những người chị trên cao nguyên trong cuộc chiến tranh bảo quốc bi tráng của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, những thế hệ đi sau anh chị Dan và Amreng sẽ mãi nhớ rằng, dòng máu kiên cường uy vũ bất năng khuất mà anh chị cùng những chiến sĩ Thượng từng một thời thể hiện dưới lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là một niềm kiêu hãnh sáng chói mà họ, những đồng bào Thượng đang bị kềm kẹp oan khuất dưới bàn tay sắt máu của cộng sản Bắc Việt, cũng sẽ có ngày vùng lên ném những quả lựu đạn và bắn những tràng đại liên vào giữa mặt bọn chúng, để hủy diệt chúng, bọn vô dân tộc vô thần đó, và cho chúng biết lòng quật khởi phi thường của người Nước Nam. Phạm Phong Dinh Subject: | Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của QLVNCH |
| Author: | comay |
| [ Long Điền ] Bài nầy viết để vinh danh những “Anh Hùng Vô Danh” Địa Phương Quân và Nghĩa Quân trong cuộc chiến 1954-1975,họ là những người chịu nhiều đau thương nhất ,tổn thất cao nhất so với các binh chủng khác trong QLVNCH, đồng thời họ chịu nhiều sĩ nhục từ phiá Cộng sản .Vì chính CSVN xem họ là kẻ thù nguy hiểm nhất qua 2 câu vè tuyên truyền của VC thời đó: ... “Ngàn hai bắt được thì tha. Chín trăm bắt được đem ra chặt đầu” (1200 đồng là lương hàng tháng của quân dịch Chủ lực quân,900 là lương của Dân Vệ /Ngĩa Quân) thực tế CSVN chỉ tuyên truyền vậy thôi,thời kỳ chiến tranh 1945-1975 chúng bắt được ai thì hầu hết đều bị thủ tiêu chớ làm gì có tha ai đâu. - Giới thiệu sơ lược : Địa phương quân, thời kỳ đầu được gọi là Bảo an đoàn, là lực lượng vũ trang địa phương của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Bảo an đoàn được thành lập năm 1955 trên cơ sở thống nhất các lực lượng Bảo chính đoàn, Nghĩa dũng đoàn, Việt binh đoàn do Pháp bàn giao lại, thu nạp thêm một bộ phận các tín đồ Thiên Chúa giáo Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Trong thời gian từ năm 1955 đến 1964, lực lượng Bảo an đoàn trực thuộc Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa, làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự trị an ở từng địa phương. Từ 1964, Bảo an đoàn được chuyển sang trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa và đổi tên thành Địa phương quân. Địa phương quân tổ chức thành các đại đội (khoảng 100 người). Trong thời gian từ 1968 đến 1972, lực lượng này phát triển mạnh từ 895 lên 1.823 đại đội, tương ứng với số quân 132.000 lên 301.000. Cuối 1972, một số đại đội Địa phương quân được gộp lại thành tiểu đoàn. Phần lớn các đồn lớn là của Địa phương quân, do tiểu khu và chi khu điều khiển. Các đồn nhỏ do phân chi khu (xã), giao cho Nghĩa quân phụ trách. Bộ chỉ huy Quận hay còn gọi là Chi Khu thông thường do lực lượng Nghĩa Quân bảo vệ. Chi khu trưởng và ban tham mưu chi khu đa số là những cấp chỉ huy xuất sắc của Chủ Lực Quân đưa sang nên họ đã huấn luyện ,hướng dẫn các đơn vị ĐPQ/NQ những phương thức hữu hiệu để tiêu diệt Cộng sản mà họ đã có được kinh nghiệm khi còn chỉ huy các đại đơn vị tinh nhuệ như Nhảy Dù,Biệt Động,Thủy Quân Lục Chiến v.v…Do đó có nhiều trung đội Nghĩa Quân đánh giặc hữu hiệu không thua gì các đơn vị chủ lực. Chính hai thành phần này mới là những người bám rễ giữ đất, chịu nhiều gian khổ và thương vong nhất trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ. Phiá Cộng sản xem họ là kẻ thù nguy hiểm,nhưng báo chí Miền Nam Việt nam thời đó cũng tỏ ra có nhiều ngộ nhận không ít về họ. Có báo thì cho là lính ma, lính kiểng, có báo thì cho là binh chủng lạc hậu và đặt tên là “Con Rùa chậm tiến” chỉ vì họ không được trang bị hiện đại bằng các binh chủng khác, luôn luôn được trang bị chậm và thiếu các loại vũ khí tối tân như M16, M79 phóng lựu. Và thông thường phương tiện di chuyển hay hành quân họ thảy đều dùng đôi chân của mình chớ không có phương tiện cơ hữu như quân xa, máy bay. Họ đánh giặc theo kiểu nhà nghèo. Lương thì ít ỏi không đủ sống, vì vậy đôi khi NQ còn được trợ cấp thực phẩm, có 2 câu thơ truyền miệng: “Dân Vệ Đoàn vì dân trừ bạo Hai bao gạo một thùng dầu ’’ (chú thích :Gạo của Hoa Kỳ trợ cấp loại 10 ký / bao,dầu là loại dầu ăn hột cải 4 lít) Nhận định về người lính ĐPQ/NQ thuộc QLVNCH xin đơn cử một số nhận định sau đây : 1-Quân lực Việt Nam Cộng Hoà: 1968-1975 Bài của nhà nghiên cứu về Việt Nam Bill Laurie:Xin xem Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2006. Trong số nhiều diễn giả Việt Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm, song song với những ý kiến không quanh co che đạy về giới truyền thông và chính trị Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam. Bài này dịch thuật nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bày lại, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ. Sử gia Bill Laurie đã có nhận định như sau về ĐPQ và NQ: “Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Địa phương quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nôi. “Họ đã nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Địa phương quân không được pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ quân lục chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh.” 2-Bài Xác Định Giá Trị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà của Tiến Sĩ Lewis Sorley (phần nói về ĐPQ/NQ) xin xem Tiến sĩ Lewis Sorley tốt nghiệp Cử Nhân năm 1956 tại U.S. Military Academy, West Point ; M.A. năm 1963 tại University of Pennsylvania; M.P.A năm 1973 tại Pennsylvania State University; Và Tiến Sĩ (PhD) năm 1979 tại Johns Hopkins University ông đã chia xẻ về những nhận xét ĐPQ/NQ như sau: “Ông Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong chương trình bình định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand là “tôi đã ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính trị kinh tế làng xã. Ta đã giúp làng xã lấy lại tính cách độc lập và tự lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham gia quan trọng nhất của chúng ta trong công việc bình định”. “Tháng Năm 1967 khi Đại Tướng Abrams đến Việt Nam thì quân lực VNCH gồm có Lục Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân-. Ngoài ra còn có những lực lượng diện địa bao gồm Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) phụ trách an ninh lãnh thổ. Tỉnh Trưởng chỉ huy Địa Phương Quân còn Nghĩa Quân đặt dưới quyền Quận Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phưong của họ và thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất”. Vào năm 1970 đã có 550,000 quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH. ĐPQ và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ và phải được ghi công đầu. Trong buổi thuyết trình WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) cho quan khách Tướng Abrams nói, “Điều tôi quan tâm nhất là vai trò của ĐPQ và NQ trong chiến cuộc luôn bị quên lãng. Người ta chỉ thường nói đến QLVNCH trong khi đã lâu nay ĐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đã giáng cho quân địch nhiều đòn chí tử. Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến an ninh cho dân thì đây mới là phần việc lớn”!
“Cùng một lúc, ông nói rõ ràng về thành tích của các đơn vị này. “Tôi không biết có nên trang bị thêm các đại đội Lục Quân không? Nếu có thêm nhân số thì tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa(ĐPQ/NQ) này có lợi hơn”.
Cuối năm 1969, khi nhìn biểu đồ tình hình trong ba tháng vừa qua ghi rõ ai đã đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử vong, Tướng Abrams đã nói: “Thật rõ ràng và đúng. Số địch bị giết, khí giới thu được, hầm bí mật phát hiện, vv, thì QLVNCH vẫn giữ nguyên tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ lệ của Đồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch là do các lực lượng địa phương và đã xẩy ra từ tháng Tám vừa qua”.
Một người trong cử tọa nói lớn, “Đó là tính chất của cuộc chiến”!. Tướng Abrams trả lời ngay, “Đúng lắm! Tôi luôn luôn hỏi lợi nhuận thu được từ 100,000 súng M-16 như thế nào ? Như vậy hả ? Vâng ta đã bắt đầu thấy kết quả”!
Ông Bill Colby cũng nhận xét rằng trong tháng Bẩy 1970 lực lượng địa phương cũng bảo vệ được súng của mình. Tỷ lệ khí giới mất đối chiếu với vũ khí thu được là một trên ba, khác hẳn tình trạng năm năm trước đây.
Tướng Abrams nói thêm: “Các Lực Lượng Địa Phưong, các con sóc ấy tiến tới rất vững vàng. Một tình trạng đã được duy trì lâu nay là ĐPQ và NQ đã gánh chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh”.
“NQ đã lần hồi gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để trở thành các binh sỹ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến tranh”! Các sỹ quan cao cấp Việt Nam cũng nhìn nhận như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng:“Các ĐPQ và NQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng và đã được các nhân vật bình luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng: “Họ là mũi nhọn trên chiến trường”! Ưu điểm :Sở trường của ĐPQ/NQ là đánh du kích,là triệt tiêu hạ tầng cơ sở địch ,trong chiến dịch Phượng Hoàng họ là binh chủng cung cấp tin tức tình báo nhiều nhất,chính xác nhất, đồng thời cũng là đơn vị trực tiếp triển khai hành quân,thanh lọc,phục kích để tiêu diệt du kích Việt Cộngvà lực lượng địa phương huyện ,xả của địch.Vì sống gần dân (ĐPQ) trong dân (NQ)nên họ nhận được nhiều tin tức tình báo quý giá,những báo cáo về sự thâm nhập của quân CS vào trong xả ấp ,những thói quen di chuyển của VC nên các cuộc đột kích,phục kích của ĐPQ/NQ rất dể thành công. - Trong thế phòng thủ đôi khi đối đầu với chủ lực CS,các chiến sĩ NQ/ĐPQ cũng đã đánh nhiều trận ngoạn mục bẻ gảy các cuộc tấn công bằng xe tăng có pháo binh yễm trợ cuả chủ lực CS Bắc Việt. -Trong công tác Bình Định Phát Triển họ là thành phần xuất sắc góp phần trong các chính sách của Quốc Gia như rào ấp chiến lược, ấp tân sinh,luật Người Cày Có Ruộng v.v… -Trong quốc sách Chiêu Hồi mà kết quả trên 200.000 cán binh VC về hồi chánh để trở về với đại gia đình Dân Tộc thì ĐPQ/NQ là có thành tích cao nhất trong việc kêu gọi cán binh VC trở về với chính nghĩa quốc gia. -Trong công cuộc trường kỳ kháng chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bão vệ Miền Nam chống lại sự xâm lăng ồ ạt của quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt cũng như sự phá rối trị an của Du Kích Cộng sản còn gọi là Việt Cộng (VC) .Lực lượng Diện Địa bao gồm Điạ Phương Quân( ĐPQ)và Nghĩa Quân (NQ) đãm nhận trọng trách lớn lao là bảo vệ làng ,xả,thị xả ,tỉnh lỵ, đô thị,trường học,cầu cống ,quốc lộ,tỉnh lộ,trục lộ giao thông nông thôn, đường sắt,các công trình quan trọng (như Đập Thủy Điện Đa Nhim,Nhà Đèn Chơ Quánv.v…) Có bão vệ an toàn nơi tuyến đầu là nông thôn thì chốn hậu phương thành thị mới yên ổn để phát triển và xây dựng,thất bại ở nông thôn là mất hậu cứ căn bản sẽ bị cộng sản bao vây và khủng bố. Chúng ta thử nghĩ hậu cứ của các đại đơn vị cuả QLVNCH tại thủ đô Sài Gòn ,Huế,Cần Thơ v.v..sẽ ra sao nếu không có vành đai nông thôn do lực lượng ĐPQ/NQ bão vệ an toàn bao bọc.Ngoài ra hàng ngàn công trình xây dựng của Quốc Gia sẽ ra sao nếu không có sự bão vệ ngày đêm của lực lượng diện địa ĐPQ/NQ để cho chủ lực quân rảnh tay hành quân lưu động tảo trừ quân chính quy CS xâm nhập Miền Nam .Nhưng thật bất công cho họ trước 1975 báo chí VNCH gần như quên lảng họ ,báo chí Hải Ngoại sau 1975 cũng vậy,xem họ như con ghẻ ,hay nhẹ hơn là xem họ như những đơn vị thứ yếu trong Quân Lực VNCH !!! Hảy nghe lời nhận định của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh Sư Đoàn 5 BB/QLVNCH (lúc đó đang là đại tá Trung Đoàn trưởng TĐ8/SĐ5) trả lời phỏng vấn cuả Chuẩn Tướng Haig /QĐ Hoa Kỳ ngày 24.1 . 1970 : “Ông giải thích sự sấp xếp này chỉ cho thấy cần yểm trợ thêm cho NQ/ĐPQ trong các cuộc hành quân của các đơn vị này vì hiện giờ pháo binh của QLVNCH phải yểm trợ cho các đơn vị chính quy và địa phương quân trong vùng hành quân của Trung Đoàn 8 …. …. “Chỉnh đốn lại cấu trúc của tất cả các vị trí phòng thủ của NQ/ĐPQ theo tiêu chuẩn của SĐ 1 BB HK để loại bỏ mọi yếu điểm hiện có trong các vị trí này. Rất nhiều vị trí hiện hữu, lô cốt và công sự phòng thủ được thiết kế và xây cất một cách yếu kém và sẽ không chống nổi bất cứ một loại tấn kích nào.” “Nhưng ông nói nếu NQ/ĐPQ không chu toàn được phận vụ bảo toàn an ninh cho các trung tâm đông dân cư, các đơn vị QLVNCH sẽ buộc phải rút về bảo toàn an ninh cho các vùng đó và rồi các đơn vị QLVNCH trở lui lại vị thế của năm 1966.”…” Cần có yểm trợ pháo binh trực tiếp cho NQ/ĐPQ.” Nhiệm vụ của ĐPQ/NQ thật nặng nề đó là bão vệ an ninh cho đồng bào sống an lành trong các thôn ấp, đồng thời bão vệ các thành thị ,tỉnh lỵ,quận lỵ được an bình và chống lại những vụ pháo kích bừa bải của Cộng Nô vào các vùng đông dân cư. Trong khi đó thì chủ trương cuả Cộng Sản Việt Nam là dùng nông thôn bao vây thành thị,phá hoại an ninh tại nông thôn bằng hàng trăm hình thức khủng bố,sát hại ,thủ tiêu ,bắt cóc,bắt thanh niên từ 14,15 tuổi trở lên bổ sung cho lực lượng VC cho các mật khu,du kích và chủ lực tỉnh ,huyện . ĐPQ/NQ đã triệt hạ các ý đồ của Cộng Quân là làm cho nông thôn bị mất an ninh để đồng bào chạy về khu thành thị , để từ đó chúng dùng nông thôn bao vây thành thị trong chiến lược thôn tính Miền Nam theo chủ trương của Quốc Tế Cộng Sản. Nhược điểm : -Một khi đã chấp nhận nhiệm vụ diện địa thì phải có mặt thường xuyên trên địa bàn cố định, đồng thời phải liên tục tuần tiểu xa và gần để bảo vệ cứ điểm như đồn bót,chợ búa v.v….Lực lượng diện địa thường cố định quân số ,ví du bão vệ cầu trên quóc lộ thì từ cấp tiểu đội đến trung đội (từ 10 đến 30 quân nhân).Quân số ít thay đổi do đó dể bị CS điều nghiên đem lực lượng mạnh gấp 3,5 lần để tấn công.Quân dụng thiếu thốn ,nhất là vật liệu để xây dựng hệ thống phóng thủ ,hầm hố rất thiếu thốn so với chủ lực quân nên khó có thể cầm cự khi bị địch ồ ạt tấn công. -ĐPQ/NQ sống trong quần chúng ,nhận nhiều tin tức tình báo từ dân cư địa phương nhưng đồng thời cũng dể bị rò rỉ thông tin cho Cộng sản tấn công,dể bị cài nội tuyến đánh úp đồn bót. -Gánh nặng trách nhiệm , huấn thị phối hợp của Bộ Tổng Tham Mưu đã minh định rỏ ràng là ĐPQ/NQ lực lượng bão vệ lãnh thổ (cố định),nhưng lại được trang bị yếu kém so với chủ lực quân đó là 3 yếu tố căn bản giải thích lý do tại sao lực lượng nầy chạm địch thường xuyên và chịu tổn thất gấp rưởi hay gấp 2 lần so với chủ lực quân(bao gồm các sư đoàn Bộ Binh và TQLC,Nhảy Dù ,BĐQ cộng lại ) theo bảng thống kê tổn thất sinh mạng hàng năm do Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đúc kết .(xem biểu đồ đính kèm bên dưới) -Trong khi đó nhiệm vụ của Chủ Lực Quân là hành quân lưu động lùng và tiêu diệt chủ lực quân của CSVN ,nhờ yếu tố di động thường xuyên nên họ ít bị địch tập trung tấn công hơn so với ĐPQ/NQ.Ngoài ra lực lượng Tổng Trừ Bị gồm các Sư Đoàn Nhảy Dù ,Thủy Quân Lục Chiến thường hành quân lưu động với quân số từ cấp Tiểu Đoàn,Trung Đoàn trở lên , đây là các đai đơn vị tinh nhuệ,có hoả lực không quân và pháo binh cơ hữu cũng như tăng phái yễm trợ tối đa khi lâm chiến nên CSVN thường tránh né các đại đơn vị nầy mà tìm cách đánh các đơn vị nhỏ của ĐPQ/NQ. Chứng tỏ trong cuộc chiến VN áp lực địch luôn đè nặng lên ĐPQ/NQ .Ngoài ra tấn công vào các vị trí như tỉnh lỵ, đô thị thì CSVN dể dàng cướp đoạt tài sản dân chúng,chứ tấn công các đơn vị chủ lực thì vừa dể bị thiệt hại và chẳng có tài sản gì để cướp ngoài vũ khí. Những trận đánh chưa ai kể đến cuả ĐPQ/NQ trong cuộc chiến Việt Nam: -Có thể nói rất nhiều kể sao cho hết những chiến công hiển hách cuả anh em chiến sĩ ĐPQ/NQ trên toàn thể Miền Nam từ 1954-1975,tôi chỉ lươc ra đây một số những chiến công của ĐPQ/NQ chưa hề được ai nhắc tới : -Trần VănTựu một chiến sĩ Nghĩa Quân quận Long Điền ,chức vụ trung đội trưởng,trước kia là một đại đội trưởng du kích huyện Long Đất ,nhưng sau khi trở về với chính nghiã quốc gia ,anh đã lập nhiều chiến công hiển hách.Từng hướng dẩn lực lượng quận vào đột kích mật khu Tam Phước,Minh Đạm như chổ không người. Đánh giặc đối với Tựu là một cái thích thú,không hề than van cực nhọc, được đi hành quân là vui ,không thích nhiệm vụ canh gát. Tỉnh Đội Bà Rịa,huyện đội Long Đất từng bao lần treo giá anh nghĩa quân nầy còn cao hơn sĩ quan trong Chi Khu.Vì tất cả thói quen, đường đi nước bước cuả VC trong vùng anh thảy đều thuộc nằm lòng.Trên đường đột kích mật khu Minh Đạm năm 1965,xuất phát lúc nửa đêm ,trung đội của anh nhận nhiệm vụ dẩn đường ,lực lượng Quận khoản 4 trung đội NQ theo sau Anh là trung đội trưởng vừa là khinh binh đi đầu .Còn độ 500 thước nửa đến mật khu .Nhìn dấu chà chôm (chổi bằng cành cây trong rừng) vừa mới quét,anh biết ngay là sắp vào mật khu,ra lệnh cho anh em dừng lại để anh đích thân bò đi đầu tháo gở mìn bẩy,anh đã áp sát và hạ thủ tên du kích gát giặc dể dàng không tiếng động,kế đó 1 tên vừa ra suối đánh răng cũng bị anh hạ thủ nhẹ nhàng.Ra thủ hiệu cho thuộc cấp bò theo,lần lượt mỗi anh NQ đứng kế bên mỗi chiếc vỏng của kẻ thù, bằng 1 thủ hiệu kế tiếp tiểu đội anh đã đồng loạt thanh toán gọn trên 10 tên VC cỏn đang ngủ trên vỏng bằng lưởi lê mà không hề nổ 1 phát súng.Sau đó cắt người canh gát thay cho VC, lục soát các hầm trú ẩn , xong rồi mới báo cáo cho Quận đem quân vào thanh toán phá huỷ căn cứ địch. Có đi bên cạnh anh thì mới biết khả năng tác chiến trong rừng của anh rất cao, đầy khôn khéo.Mỗi hành động đều có tính toán nhanh như sao xẹt, phản ứng rất nhanh và chính xác.Một lần đang đi cùng tiểu đội đi đến điểm phục kích đêm,anh vô tình đi ngang qua một cửa sổ có 1 tên du kích đang về thăm nhà ,ngoài ra còn có 2,3 đồng bọn canh gát ngoài xa.Tên du kích thoáng thấy dáng anh la lên hỏi:”ai?” .Anh bình tỉnh đi chậm lại ,không quay đầu,khong hấp tấp trả lời :”mình đây mà!”rồi tiếp tục đi bình thường.Tên du kích mắc lừa tưởng đồng bọn ,không nổ súng,vừa qua khỏi vách nhà anh xoay ngang trả lời bằng 1 tràng tiểu liên Thompson kết liểu tên VC trong nhà.Bởi vì nếu anh tỏ ra hấp tấp hay chạy thì tên nầy sẽ nổ súng trước anhvà sẽ hạ anh dể dàng. Còn hàng trăm chuyện lớn ,chuyện nhỏ của anh trong đời lính đẹp như ciné,lính trong quận thi nhau kể về anh như thế! Nhưng hể có tài thì lại có tật,trong bất kỳ cuộc hành quân nào ,dù cấp chỉ huy có ra lịnh,lục soát bi đông cuả anh cẩn thận đến đâu,hể đi ngang qua xóm nhà dân thì anh chàng mua bidon rượu đế lúc nào không ai biết ,rồi vừa đi vừa lén uống từ từ ! Một lần đi hành quân qua vùng An Ngải ,ta và địch chạm súng bất ngờ, địch khai hỏa trước làm cho ta bị thương 2 NQ,địch có cây cối bao che,bên ta trống trải nên đành nằm bẹp để chịu trận.Quân ta dàn hàng ngang chờ đợi vì địch đang có chướng ngại vật bao che,có gốc cây lớn làm điểm tựa , địch bắn sẻ chứ chưa dám xung phong vì hai bên ngang ngửa.Thình lình anh chàng Tựu nổi nóng vì nảy giờ phải mọp bên bờ ruộng ,từ từ cởi súng , đạn ra để 1 bên chỉ đeo dây ba chạt đầy lựu đạn M26,không nói 1 lời,không xin phép cấp chỉ huy. Đứng dậy vụt chạy cực nhanh thẳng vào vị trí địch,trong khi đồng đội thảy đều bất ngờ.Anh ta chạy có kỹ thuật chử chi hẳn hoi ,hai tay 2 quả lựu đạn ,còn cách khẩu thượng liên 10 mét,tông 2 quả lựu đạn xong rồi nằm chờ.Hai tiếng nổ long trời vừa nổ chưa hết khói là lúc anh ta phóng mình chạy vô lượm súng và thanh toán địch bằng chính AK cuả địch.Tới đó thì trung đội còn lại mới giật mình mà xung phong theo anh.Trận đụng độ chơp nhoáng nầy ta hạ sát được 4 tên VC,số còn lại hoảng quá chạy hết.Anh chàng Tựu đứng lên cười ha hả làm cho chúng nó nín thở mà chạy,bỏ lại khẩu thượng liên và 2 khẩu AK.Diển tả thì dài dòng mà diến tiến ngoài mặt trận thì nhanh như chớp mắt,không ai ngờ anh Tựu lại thanh toán địch nhanh đến như vậy! Tức mình vì anh nầy làm càn không xin phép,sỉ quan Chi Khu kêu anh lại quở trách .Anh chàng trả lời tỉnh bơ “thiếu úy ơi ,em đâu có ngu,em bỏ súng lại ,chạy mình không vô tụi nó ,chơi cho tụi nó 2 quả,lở thời tụi nó bắn giỏi thì cùng lắm là chết mình em ,chúng nó đâu lấy được súng em đâu!”Rồi cười hề hề làm sao mà nổi nóng với anh chàng ba gai nầy được! Một lần VC phát loa,gần bên hông dinh Quận chừng trăm thước,chắc có lẻ độ tiểu đội du kích bò vô,phát loa tuyên truyền chừng 5,10 phút rồi sẽ bỏ chạy,trong quận thì chưa biết phản ứng ra sao vì VC đang nấp bên nhà dân,bắn ra thì sợ trúng dân,không bắn thì cũng kẹt.Anh chàng Tựu giơ tay tình nguyện :”Xin ông thầy cho em ra lấy cái loa, đừng bắn ra tui nó ,coi chừng trúng em,em hưá bắt gọn lấy cái loa nộp ông thầy mà “ Với cây tiểu liên bá xếp anh bò ra ngoài bằng cổng hậu rồi lần mò ra tới nơi tên phát loa, đứng dậy bắn 1 phát lấy cái loa chạy vô quận ,tụi du kích còn lại bắn theo nhưng không kịp với con sóc nhanh nhẹn nầy.Diển tiến chưa đầy 10 phút thì anh đã thanh toán xong mục tiêu !Với kích thước nhỏ con độ chừng 1m,55 thôi nhưng anh chàng NQ gan dạ nầy làm cho bọn VC trong vùng kinh hồn tán đởm. -Ở chi khu Đất Đỏ cũng có vài anh NQ gan cóc tiá ,y hệt anh Tựu.Anh nầy tên gì tôi quên rồi,chỉ còn nhớ sự việc như vầy : khoản năm 1967 VC bao vây Chi Khu Đất Đỏ ngay gửa ban ngày, vòng vây chưa thắt lại gần ,chúng đã xâm nhập vào 2 xả Phước Thạnh và Phước Hoà Long cách BCH Chi Khu độ 2 cây số đường chim bay,chúng bắn cầm chừng nhưng lực lượng thâm nhập vô quận lỵ rất đông ,có lẻ để chờ đánh lực lượng tiếp viện của Tỉnh.Quân số chúng độ khoản trung đoàn .Những toán quân tuần tiểu cuả ta đụng độ lẻ tẻ với địch nhưng phải rút về Chi Khu vì địch quân số địch quá đông. Được tin tình báo của dân và vợ lính cho biết VC đang đóng quân nhiều nơi,trong đó có 1 chổ đặt Bộ Chỉ Huy gần nhà dân,muốn phối kiểm tin tức để có thể sử dụng pháo binh đánh chính xác điạ điểm vì sợ lầm nhà dân , ông Chi Khu Trưởng đích thân tập hợp trung đội NQ thám báo Chi Khu để tìm 1 người tình nguyện đi ra ngoài ,vào tận nơi để xem xét tình hình.Cuộc đi nầy muôn vàn nguy hiểm vì vậy ông Chi Khu Trưởng cần 1 người tình nguyện .Trong vòng 5 phút giải thích lý do,có đến 3 anh NQ tình nguyện !Anh chàng được chọn vì anh viện cớ có vợ chưa có con,có gì thì nhờ 2 bạn kia lo giùm vợ con .Anh giả trang người đi cày vác cuốc ,mặc aó bà ba,lận lựu đạn trong người.Lấy cớ đang cày bừa,nghe nổ súng nên chạy về nhà .Anh qua mặt du kích gát dể dàng ,xâm xâm đi vào vùng địch kiểm soát, đi về hướng BCH trung đoàn địch với cây cuốc trên vai!Qua mấy xóm nhà dân,gần đến BCH thì địch khả nghi ,hô đứng lại,anh vụt chạy thẳng vô căn nhà VC đóng BCH nên chúng chưa dám nổ súng sợ trúng cấp chỉ huy.Anh xông tới gần ,ném 2 quả lựu đạn rồi chạy ra ngoài sau khi nổ xong,tiêu diệt trọn ổ BCH Việt Cộng .Sau đó anh chạy thoát được ra ngoài vì chúng hoảng loạn ,mãi gần 4 giờ đồng hồ sau anh mới về đến được Chi Khu ,hoàn thành nhiệm vụ tình báo !!!Nhờ tin tức chính xác Chi Khu sau đó đã bắn pháo binh vào đúng tọa độ anh NQ nầy cho , đồng thời lợi dụng lúc địch đang bối rối vì BCH bị thiệt hại nặng,Chi Khu đã nhanh chóng điều động lực lượng ĐPQ phối hợp NQ giải toả vòng vây , Địch bỏ chạy ,rút hết vì đã lộ kế hoạch . -Đồn Bờ Đập thuộc xả Hội Mỷ quận Đất Đỏ do 1 trung đội thuộc Đại Đội 612 ĐPQ đãm trách,tối đi phục kích 2 tiểu đội ,còn 1 tiểu đội ở nhà giử đồn .Vợ lính cũng cắt gát 1 vọng vì thiếu quân số. Đêm đó (khoản năm 1967 )VC sử dụng 1 tiểu đoàn chính quy,có súng phun lửa,DKZ,B40 cộng thêm dân công ước độ vài trăm người tấn công biển người với cái đồn nhỏ chỉ độ 10 người lính với 15 bà vợ lính, 2 tiểu đội đi phục kích bên ngoài cũng không về tiếp ứng được,các bà vợ lính đã chiến đấu dủng cảm ,con nít thì tiếp tế đạn,lựu đạn ,họ đã cầm cự đến sáng Chi Khu mới đưa quân đến tiếp ứng kịp thời,sau đó thu gom xác VC chết chung quanh đồn gần 60 tên ,mượn xe pulldozer uỉ 1 cái hố daì 20 mét ,chôn chung mấy anh “sinh Bắc tử Nam” nầy chung 1 hố có cấm bảng lớn ghi rỏ ràng :”Mồ chôn Cộng Phỉ”.Không hiểu sau 75, VC có đào đi cải táng không thì không rỏ.Phần nầy chắc chúng không dám ghi vào quân sử vì tủi hổ quá :10 đánh 1, mà một lại thắng !Mấy bà vợ lính sau đó có được Tỉnh tặng bằng khen ,có truyền hình từ Saì Gòn đến quay phim làm lại trận giả ,quay lại trận đánh để đời nầy,không rỏ chiếu được mấy lần!.Sau trận nầy có 1 chi tiết đứng tim. Đó là khi trên Tiểu Khu đến nghiên cứu trận liệt có 2 ,3 sĩ quan cấp tá đến xem xét , thì có 1 tên VC quá sợ đã trốn im lìm trong bụi cây ôm khẩu AK ,trời sáng bét mới giơ khẩu AK đứng lên đầu hàng,làm ai nấy 1 phen hú hồn vì nó mà còn can đảm quơ 1 băng AK chắc phải có 2 ,3 người chết vì tên nầy! Lính NQ ở các quận nói chung rất gan dạ, chiến đấu trường kỳ không hề than van ,họ có ưu diểm sống gần nhà ,gần quê quán nên không dám làm gì sai quấy sợ bà con chê cười.Trong khi đó lực lượng chủ lực xa nhà ,xa quê ,nếu cấp chỉ huy không kiểm soát kỷ dể có tình trạng kiêu binh làm mất lòng dân .Anh em ĐPQ/NQ rất sợ mất lòng dân nên họ gử gìn kỷ luật rất giỏi. Đây chỉ là nhận xét chung chung ,không có ý so sánh với các binh chủng đàn anh.Bởi vì các trận đánh lớn binh chủng Nhảy Dù ,Thủy Quân Lục Chiến ,Biệt Động Quân v.v.. xứng đáng bậc đàn anh vang lừng trong quân sử còn NQ/ĐPQ chỉ sở trường những trận nhỏ không tên mà thôi. -Trong trận chiến sau cùng tại Chi Khu Long Thành ngày 24 tháng 4 năm 1975 tôi đã mục kích những người lính Nghĩa Quân Long Thành bắn cháy 4,5 chiếc T54 qua những màn sáp lá cà còn hayhơn phim ảnhMỹ!!!Ai có dịp đi ngang quốc lộ 15 đoạn quận lỵ Long Thành sau ngày 30.4.75 chắc đã thấy 5,7 xác T54 của VC cháy còng queo trước quận lỵ Long Thành , đó là chiến công của Nghiã Quân Long Thành đánh tăng T54 bằng M72 và M79 chống tăng rất giỏi .Trung Tá Sáu Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng đã đánh một trận khiến cho Cộng Quân nhớ đời.Trung Tá Sáu trong trận đánh đã đi từng vị trí của NQ để động viên binh sĩ, đồng thời ông cầm nón sắt đi xin các binh sĩ nào còn lưụ đạn để đính thân ông đem ra cổng chánh cho binh sĩ ném vào các chiến xa địch đang tràn vào,một chiếc T54 bị đứt xích 1 bên vì trúng M72 quay vòng vòng trước cổng chi khu sau đó đã bị 1 chiến sĩ NQ phóng lên thảy1 trái lựu đạn vào buồng lái kết thúc cưộc đời của “con cua”gảy càng nầy.Hành động can đãm nầy cuả anh NQ đã trả giá bằng chính bàn tay của anh ,vì thế TT Sáu đã xin trực thăng tản thương anh chiến sĩ can trường nầy trong khi 2 bên còn đang đánh nhau dử dội !Sau nầy nghe kể lại còn có 1 trung đội NQ đồn trú trên Quốc lộ 15 gần quận lỵ Long Thành ,hết ngày 2 tháng 5 trung đội NQ nầy vẫn kiên trì chống CS tới viên đạn cuối cùng,vừa bắn nhau vừa kéo chuông nhà thờ kêu gọi quyết tử!!! xin xem Ðốt Cháy Thân Nên Ngọn Lửa bài của Phan Nhật Nam . Ở Vùng 4/Chiến Thuật cũng vậy ,chẳng những chồng đánh giặc mà vợ ,con ĐPQ/NQ trong đồn cũng đánh giặc luôn: Chị Nguyễn Thị Thàng vợ của Nghĩa Quân trưởng đồn Giồng Trôm, Kiến Hòa đã cùng những đứa con, bên cạnh xác chồng, nỗ tung trái lựu đạn cuối cùng tại giờ phút đau thương oan nghiệt của sáng 30 tháng Tư, 1975. Năm 1802, để thực hiện lời nguyền "báo thù cho tiên đế ba đời", Nguyễn Vương Gia Long xử tử tất cả triều đình Tây Sơn bằng những biện pháp hành hình gớm ghê man rợ nhất. Nữ Tướng Bùi Thị Xuân trước giờ vĩnh quyết ở pháp trường, đã quắt mắt, bật tiếng hét oai vũ khiến con voi trận (đem đến dày lên con gái nhỏ của bà) phải tung xiềng chạy trốn, và chỉ chết khi thân thể bị xử lăng trì- đốt cháy bởi sợi bấc tẩm dầu cắm sâu vào thịt. Nữ Tướng không tiếng kêu than nhận cái chết để bày tỏ lòng trung nghĩa với chồng, Thái Úy Trần Quang Diệu và Tiên Vương Quang Trung. Chị Nguyễn Thị Thàng chết cùng lần với chiếc đồn bị bộ đội cộng sản tràn ngập, người chồng vừa tử trận. Ðồn Giồng Trôm, Kiến Hòa ở nơi đâu? Chị Nguyễn Thị Thàng là ai? Tổ quốc, quốc gia, chính phủ, cộng hòa, dân chủ.. hẳn là những chữ nghĩa không nằm trong ý niệm của người đàn bà bình thường ấy. Nhưng quả thật, Người Ðàn Bà Việt Nam tên gọi Nguyễn Thị Thàng đã sống- chiến đấu- chết về một điều đơn giản không bao giờ diễn giải, nói ra lời: Sống-Chết Tự Do - Trọn Nghĩa Vợ Chồng. Người viết được biết trong các vùng chiến thuật,các tiểu khu ,các chi khu còn rất nhiều đơn vị ĐPQ/NQ xuất sắc nhưng chưa được ai biết đến.Kính mong quý chiến hữu viết nhiều bài về các đơn vị ĐPQ/NQ anh hùng để mai sau lịch sử còn biết đến các đơn vị vô danh đã góp nhiều máu xương trong công cuộc bão vệ Miền Nam Việt Nam trong suốt 20 năm trường chiến đấu gian khổ.Hoặc chuyển những tài liệu về các trận đánh của ĐPQ/NQ về cho chúng tôi để đúc kết đưa ra trước công luận những trận đánh để đời của binh chủng khiêm nhường nầy,kính mong quý chiến hữu gởi thơ từ tài liệu hay bài viết về cho trang web của lính : http://www.toquocdanhdutrachnhiem.com/ hoạc email về trang web : toquocdanhdutrachnhiem@yahoo.com chúng tôi sẽ đúc kết và phổ biến cho đồng đội, đồng bào và thanh niên thế hệ trẻ quốc nội cũng như hải ngoại những bài học thế hệ trước đã chiến đấu chống loài Cộng Phĩ như thế nào.Rất hân hạnh đón chờ sự đóng góp của quý bạn. Tổng kết : ĐPQ/NQ là lực lượng “Sinh sau đẻ muộn”của QLVNCH ,có nhiều sở trường cũng nhu nhiều sở đoản,nhiệm vụ được giao thì nặng nề,nhưng trang bị ,yểm trợ lại yếu kém do đó có nơi thì hoàn thành xuất sắc,có nơi thì chỉ trung bình .Tuy nhiên qua những điều vừa phân tích có nhiều bất công đối với họ ,kể cả những bất công chung của QLVNCH bị nhóm truyền thông bất lương bôi bẩn có mục đích thương mại và chính trị,bị đồng minh xem thường và phản bội ,vậy phải trả lại “Công Đạo”cho họ .Họ là những anh hùng vô danh,khong có ai cậy nhờ để phục hồi danh dự,nhưng họ cũng không xin xỏ và luôn ngẩng cao đầu mà đi vì xét cho cùng họ đã đóng góp xương máu của mình nhiều nhất cho Quốc Gia và Dân Tộc. Trong thời điểm từ 1972 đến 1975 ,sự sai lầm về chiến lược trong việc sử dụng các sư đoàn bộ binh và các sư đoàn tổng trừ bị vào nhiệm vụ bão vệ lãnh thổ,thay vì sử dụng lực lượng ĐPQ/NQ là nổ lực chánh trong phòng thủ diện địa để các sư đoàn bộ binh và các lực lượng tổng trừ bị Nhảy Dù,Thủy Quân Lục Chiến rảnh tay hoàn toàn lưu động 100% để tiếp ứng chiến trường bất cứ nơi nào cần .Khốn thay cuối năm 1974 và đầu năm 1975 chúng ta đã không còn lực lượng tổng trừ bị nào cả khi Cộng Sản dốc toàn lực tấn công! Nhưng trận chiến 1975 chưa phải là trận chiến sau cùng.Những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà và toàn dân Việt Nam kiêu hùng sẽ dành lại quyền tự quyết ,lật đổ bạo quyền để xây dựng lại quê hương và bão vệ biên cương trước mưu đồ xâm lược của kẻ thù truyền kiếp từ Phương Bắc và thái độ hèn hạ dâng đất ,dâng biển cho Tàu Cộng của bè lủ cộng sản Việt Gian. Long Điền 25.12.2008 Ghi Chú :muốn xem trọn bài xin bấm Ctrl (control)+ click vào các link đính kèm. Regular Force Chủ Lực Quân bao gồm c ác sư đoàn B ộ Binh,Nhảy Dù ,Thủy Quân Lục Chiến,các Liện Đoàn Biệt Động Quân. RF/PF=Regional Force (Địa Phương Quân)/Popular Force militia (Nghiã Quân ), Para=paramilitary forces(Lực lượng bán Quân sự bao gồm Cảnh sát,Xây Dựng Nông Thôn,Thám sát Tỉnh v.v…) xin xem
Note 1: there were an additional 10,824 non-hostile deaths for a total of 58,202 Note 2: of the 304,704 WIA, 153,329 required hospitalization Note 3: this number decreases as remains are recovered and identified Note 4: 114 died in captivity Note 5: Does not include 101,511 Hoi Chanh(c ó t ài li ệu tr ên 200.000 c án binh C ộng s ản Hồi Ch ánh) Legend: KIA = Killed In Action WIA(t ử tr ận) = Wounded In Action MIA(b ị th ư ơng) = Missing In Action (m ất t ích)CIA = Captured In Action (b ị b ắt) Chú Thích : ARVN=QLVNCH, NVA/VC=Bộ đội Bắc Việt v à Việt Cộng , xin xem
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà: 1968-1975 Bài của nhà nghiên cứu về Việt Nam Bill Laurie Xem đầy đủ hình ảnh và tài liệu về Quốc sách Chiêu Hồi ở trang web : quyển sách nói về Chính sách Chiêu Hồi của VNCH từ 1963-1971 gồm 252 trang Lời kêu gọi đại đoàn kết Dân Tộc nầy là việc làm thiết thực nhất và thành thật nhất vì đã được chứng minh cụ thể bằng lời hứa và việc làm đi đôi với nhau ,những hồi chánh viên không còn bị mặc cảm người đầu hàng mà họ được đối xử như người anh em lạc lỏng nay trở về với đại gia đình Dân Tộc. Tem kỹ niệm ngày 18 tháng 2 năm 1973 là ngày đạt được người Hồi Chánh thứ 200.000 (Tương đương với quân số 20 sư đoàn )và giấy thông hành cho cán binh cộng sản muốn về hồi chánh. Lời kêu gọi đại đoàn kết Dân Tộc nầy là việc làm thiết thực nhất và thành thật nhất vì đã được chứng minh cụ thể bằng lời hứa và việc làm đi đôi với nhau ,những hồi chánh viên không còn bị mặc cảm người đầu hàng mà họ được đối xử như người anh em lạc lỏng nay trở về với đại gia đình Dân Tộc.
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com
| Subject: | Những Anh Hùng Vô Danh |
| Author: | amdahl |
|
Những Anh Hùng Vô Danh Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị
"Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang"
"Đường ra trận mùa này đẹp lắm" Đại úy Ngọc thòng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.
Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 3 số 5. Chiều đại yến với la de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng mình... rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp thằng khác thì hết một đời trai. Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một thằng chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy ... hết muốn bay bổng. Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. Có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt thằng Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười. Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ.
Tôi phản đối "ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao giờ lớn được". Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì mà huy hoàng. Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xát thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ... mất đào ở nhà.
Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.
Hậu sinh.... chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. Này nhé, ở nhà với vợ, có thằng chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải "báo cáo"đầy đủ. Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. Thằng nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là "những ngày nghỉ mát" vì thứ nhất mình thoát khỏi vòng cương tỏa... bà tư lệnh , muốn làm gì thì làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe mình chưa vợ hay vợ... mới chết thì đó là quyền của mình. Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi. Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú.
Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có "Action" phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v.
Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm ý, nên kết luận.
- Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi.
Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất...văn học chút nào hết.
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở Đời hết vui khi đã vẹn câu thề"
Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
- Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.
Anh Ngọc dễ dãi:
- Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.
Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành....
Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kon-tum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích.....,ai nấy võ khí trang bị tới răng trông phát khiếp. Lâu lâu, phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài tà áo dài phất phơ của các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.
Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.
Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im. Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường:
- "Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C...gì mà bắn độc thế? Sao không về nhà mà bắn... bà xã cho được việc", một giọng càu nhàu cất lên.
Lại có giọng khác hăm dọa " ngày mai tao phải "phản đấu" mới được. Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy "phản đấu" ai một lần thì ông ăn cơm mới ngon.
Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt thì lại "ầm" một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm "Đ.." mọa nó, bén chi mà bén miết..".
Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi... Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết. Mãnh lực nào, sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người lính bộ binh để "chết thay dùm dân tộc" để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy. Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn, chỉ đủ mua bao gạo. Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của Hùng Cường, Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu nước. Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ "Yêu" yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường gía cả.
Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn. Có thằng... Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:
- Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?
Nó đáp tỉnh queo :
- Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.
Tôi suýt bật cười. Đúng là thằng lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu :
- Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.
Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, thằng On chửi thề:
- Đ.. M.. thằng mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có ngu.
Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người quả thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy... sơ sơ thôi chứ không còn "nồng nàn da diết" như những ngày mới đến đây nữa. Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi... lì đến tới tối.
Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể gì kiếm được một cành hoa. Tôi để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là... màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó... chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết thằng khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết. Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một cau "everybody loves the lover". Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục thằng như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh " Vừa phải thôi... tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày".
Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn " giặc cỏ" đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi " duy trì khả năng" bắn rocket. "duy trì khả năng" là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay "duy trì khả năng" cho khỏi quên.
Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như 'Dăng gô" bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn thì dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. "G" đâu mà lắm thế , mặt mũi cứ dài ra cả thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh còn nhìn "tác phẩm" của tôi phê bình "Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là con nhà vô phúc".
Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc :
- Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng nào đó "duy trì khả năng" rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.
Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:
- Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.
Có cái gì thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
- Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không?
Tôi chả biết gì, trả lời:
- Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?
- Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
- Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.
- Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
- Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: "15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xui quảy.." vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:
- Trên trời mà phòng không "kèm cứng một rừng" như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây "broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi thề:
- "Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây."
Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên "súng đâu mà chúng nó lắm thế" Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây...VC này. Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo "phụ diễn". Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
- Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới... Têt cũng huề.
- Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
- Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ
- Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn....
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:
- Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
- Nghe 5 bạn
- Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào. Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế...chết người.
- Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải "chiến tranh chính trị" mới được.
- Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi...chiến tranh chính trị anh?
Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
- Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là...có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.- Xong rồi.
Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
- Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi. Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:
- Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi. Nhưng anh nói ngay:
- Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em. Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng "everywhere". Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang "tùng thiết" đi vô chăng? Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:
- Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó...bỏ bomb thấy mẹ mày.
Tức quá mà không làm gì được thì...chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
- Thạnh Trị, đây Bạch Ưng
- Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.
- Có sao không bạn?
- Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn "tới" lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.
- Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
- Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
- Tôi hiểu bạn.
Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc.
- Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra....
- Ờ, may ra....
Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái Rocket nổ...gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết thằng chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên.
Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó...đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
- Thạnh Trị, đây Bạch ưng
- Nghe bạn 5.
- Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?
- Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
- OK! Roll
Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây...phản quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 "để" vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:
- Bạch ưng, đây Thạnh Trị
- Nghe 5 bạn
- Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
- Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.
- Bạn...
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "ra giao thông hào với mấy đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ "over run" Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.
Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
- Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
- Còn phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân "TTHQ" thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:
- Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gã trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào.. Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir" lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.
Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe... lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:
- Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?
- Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỹ chưa?
Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:
- Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà bạn...
Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết quả. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải... cẩn thận.
- "Cẩn thận con C... ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
- Roger! Sir, Did you say...right on it? Over
- Yes sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.
- Roger, sir, I understood, sir, Over.
Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa " Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc...
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? Hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học trò bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.
Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
- Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.
- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ "Y pha nho" mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.
Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt.
Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh. Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính...âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiệp, không "truyền thống, binh chủng" không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tỉnh xin "cho nó nổ trên đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi". Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả.... Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé :
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng Đã xông vào khói lửa quyết liều thân Để bảo vệ tự do cho tổ quốc Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan Người thất cơ đành thịt nát xương tan Những kẻ sống lòng son không biến chuyển Tuy tên họ không ghi trong sử sách Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật Nhưng máu họ đã len vào mạch đất Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông Và linh hồn chung với tấm tình trung Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.
Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh.
Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh". Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.
Trường Sơn LÊ XUÂN NHỊ
| |
No comments:
Post a Comment