Giai thoại về sứ thần Giang Văn Minh
Vua nhà Minh hôm ấy rất bất bình. Vào ngày khánh thọ nhà vua, các sứ giả các nước đến cống lễ thiên triều, đều mũ áo chỉnh tề, đem phẩm vật đến mừng đúng theo phép tắc. Chỉ mỗi sứ thần Việt Nam là không thấy đâu cả. Vua nổi giận, cho thị vệ đến nơi công quán, đòi sứ giả đến hỏi nguyên do.
Bọn lính đến nơi thấy sứ thần Việt Nam đang nằm trên giường, ôm mặt khóc nức nở. Đem lệnh tuyên triệu ra bắt buộc, ông mới gắng gượng thất thểu đi theo chúng và triều kiến nhà vua. Trả lời câu hỏi và cũng là lời trách cứ vì tội vô lễ, sứ thần Đại Việt quỳ xuống tâu trình:
- Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui.
Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười:
- Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc. Cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể “miễn nghị”.
Vị sứ giả Việt Nam lau nước mắt, ngẩng đầu lên, giọng trầm và kiên quyết:
- Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị. Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu...
Vua Minh ngớ người ra! Lý lẽ của sứ thần thật mềm mỏng, ôn hòa mà chặt chẽ, kín không khe hở. Vua đành gật đầu, cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Tuy vậy, phải đến triều nhà Thanh, vua Quang Trung mới bắt chúng chấm dứt vĩnh viễn cái lệ này.
Vị sứ thần ấy tên là Giang Văn Minh ở làng Mông Phụ, Đường Lâm, trước đây thuộc tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thị xã Sơn Tây - tỉnh Hà Tây. Ông đỗ Thám hoa năm 1628. Cuộc đi sứ hồi đó vào năm 1637. Câu chuyện vẫn còn tiếp tục. Những ngày ở lại kinh đô nhà Minh, Giang Văn Minh vẫn cứ tỏ thái độ cứng cỏi, đôi lúc cũng ngông cuồng. Có lần sau những ngày mưa gió ẩm ướt, trời nắng to, thiên hạ ai cũng đi dạo chơi, ngắm cảnh, sưởi ấm, riêng ông lại nằm nhà, ra sân, phanh bụng để... phơi nắng! Bọn quan chức Tàu hỏi tại sao, thì ông nói:
- Lâu nay học hành, sách vở thiên hạ có bao nhiêu, đều thu cả vào trong bụng này. Bên nước Nam, thời tiết hanh khô, chứ bên Trung Quốc thì ẩm ướt quá. Hôm nay được trời nắng to phải phơi bụng ra cho chữ trong ấy khỏi mốc!
Câu trả lời nghịch ngợm, hóm hỉnh thôi. Nhưng bọn quan lại hiểu ra là ông có ý khinh bỉ, ngạo đời. Cái nước An Nam nhỏ bé thế mà có người lại dám ngông nghênh xấc xược! Chúng tâu lại với vua Minh, nhà vua cũng tự ái, cứ muốn nhắc lại cho sứ giả biết rằng xưa kia nước Nam đã có thời gian nội thuộc thiên triều lâu dài. Bởi vậy nhân một dịp thử tài ứng đối, nhà vua đã ra cho Giang Văn Minh một vế đối như sau:
Cột đồng nay rêu đã bám xanh!
(Đồng trụ chí kim đài dĩ lục)
ý muốn nhắc chuyện Mã Viện chôn cột đồng để khoe khoang chiến công xâm lược. Cột đồng còn đó thì chiến công thiên triều còn lưu lại bây giờ.
Giang Văn Minh thấy họ chỉ thích thú với tội ác mà quên đi bao nhiêu nhục nhã từ xưa, nên cứng cỏi đáp lại:
Sông Đằng từ lâu máu vẫn đỏ!
(Đằng giang tự cổ huyết do hồng!)
Máu vẫn đỏ là vì máu loang ra từ những trận Ngô Quyền diệt Hoằng Thao, Lê Hoàn diệt Hầu Nhân Bảo, Trần Hưng Đạo diệt Thoát Hoan.
Bị chạm nọc vì Giang Văn Minh ngang nhiên nhắc lại những trận thua đau của họ, vua Minh nổi cáu, bất chấp cả luật lệ bang giao, cho bắt giam, trám mắt, trám miệng và mổ bụng Giang Văn Minh xem sứ thần Việt Nam to gan đến thế nào. Cuộc sát hại hèn hạ này xảy ra vào năm 1639./.
Bài thơ đem lại quốc thể
Võ Huy Tấn là một quan văn kiêm nhà ngoại giao nổi tiếng dưới triều vua Quang Trung. Ông quê ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương, chưa rõ năm sinh và năm mất. Ông đậu Hương cống đời Lê, sau ra làm quan dưới triều Tây Sơn, từng sang sứ nhà Thanh và được triều đình Mãn Thanh rất khâm phục về tài ứng đối.
Tương truyền khi đi sứ nhà Thanh, một hôm ngồi ở công quán tình cờ thấy trong cuốn sổ ghi những đồ cống của ta do tên lại thuộc nhà Thanh biên chép, có viết hai chữ “di quan” (quan mọi) để chỉ sứ bộ Việt Nam. Võ Huy Tấn bất bình vô cùng.
“Biết làm thế nào bây giờ, chẳng lẽ đi gây gổ với một tên lại thuộc? Tên này, chẳng qua cũng chỉ là kẻ thừa hành của vua quan nhà Thanh mà thôi”.
Ông suy nghĩ lung lắm và cuối cùng ông đã tìm ra được cách phản kháng vừa tao nhã vừa sâu cay.
Ông đề luôn một bài thơ bốn câu ba vần vào cuốn sổ rồi trao cho tên lại thuộc xem.
“Di” bản tòng “cung” hựu đái qua
Ngô bang văn hiến tự Trung Hoa
Thần kinh khâm tứ An Nam quốc
Thử tự thư lai bất diệt ngoa.
Dịch nghĩa:
“Di” vốn là “cung” hợp với qua
Nước Nam văn hiến giống Trung Hoa
Từ xưa tên nươc rành rành đó
Viết bậy là “di” há chẳng ngoa.
Viên lại mục này cũng là một người hay chữ xem xong anh ta rất phục bài thơ ở chỗ khéo léo mà cương nghị, vừa giữ được quốc thể vừa không đẩy cuộc ngoại giao tới chỗ gay go. Tài tình nhất là cách triết tự chữ “di” của Võ Huy Tấn đã làm cho bọn sứ thần nhà Thanh phải kiêng sợ. Nó có nghĩa là:
Các ông đừng coi thường chúng tôi là man di, di đây là di có sức mạnh, gồm cung và mác (vì chữ “di” gồm chữ cung và chữ qua hợp lại) chứ không phải là nước yếu hèn đâu.
Nghe nói, sau này khi bài thơ được truyền đến tai vua nhà Thanh thì lối gọi miệt thị dân tộc từ đấy được bãi bỏ.
No comments:
Post a Comment