LTS: “Những gì chúng tôi viết về Bùi
Tín (cũng như các cá nhân khác) đều căn cứ vào chứng cớ rõ ràng, do sách
báo hay trả lời phỏng vấn của cá nhân đó, mà phản biện, ngõ hầu đóng
góp cho việc nhận diện cá nhân hay tổ chức là THỰC hay là CUỘI.” Đấy là ý
kiến của các tác giả: Việt Thường, Nam Nhân và Lý Tuấn. Hồn-Việt trân
trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết dưới đây :
BÙI TÍN NHẬN XÉT VỀ QLVNCH và QUỐC KỲ VÀNG
“Trích từ : Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam.
VĂN BÚT PHÁT HÀNH năm 2004. Từ trang 156–165. “
Bùi Tín: Phản bội chứ không phản tỉnh
Cha đẻ của Bùi Tín là, Bùi bằng Đoàn,
một kẻ cả cuộc đời chỉ làm “cẩu nô”. Thời thực dân Pháp, Bùi bằng Đoàn
đã bỏ tù, đưa đi lưu đầy, tịch thu tài sản hàng trăm vạn người Việt Nam
chỉ vì thiếu thuế đóng cho thực dân Pháp, hoặc chống lại bọn xâm lược
thực dân Pháp bằng cách này, cách khác. Chính vì nắm được cái bản chất
của cả 3 anh em họ Bùi – cố công học để ra làm tay sai cho thực dân
Pháp, hai anh thành tuần phủ, còn Bùi bằng Đoàn thì leo tới thượng thư
Bộ Hình – tên đao phủ với cỗ máy chém của Khâm sứ thực dân Pháp tại
Trung kỳ – cho nên Hồ mới gọi Bùi bằng Đoàn ra hợp tác.
Nếu Bùi Tín đừng lấc cấc dùng ngòi bút
bất lương để tô vẽ cho dòng họ và bản thân thì cũng chẳng ai thèm quan
tâm đến tên “cẩu nô” Bùi bằng Đoàn, vì hắn chỉ là cặn bã của lịch sử
Việt Nam!
Nếu quả rằng họ Bùi thấm nhuần Nho
giáo, như Bùi Tín viết, thì dù Hồ có giết cũng không hợp tác chứ đâu cần
đến lần thứ ba đã đi bằng đầu gối ra hợp tác với Hồ! Bùi Tín hãy nhìn
lại lịch sử xem Trần Bình Trọng ứng xử ra sao khi giặc Nguyên-Mông mời
làm vua. Rồi từ Phan Đình Phùng đến Phan Bội Châu; Lương Văn Can, Nguyễn
Thiện Thuật, Tam Nguyên Yên Đỗ, Hoàng Hoa Thám… nhiều lắm lắm. Và, đặc
biệt là cụ Ngô Đình Diệm được Hồ trân trọng mời nhưng đã sáng suốt từ
chối cái ghế bộ trưởng nội vụ, cũng như Đức Cha Lê Hữu Từ, không để bị
Hồ lừa.
Sau này, trong cái thường vụ Quốc hội
khóa 1, chạy lên Việt-Bắc, giáo sư Trịnh Thục Viên bị áp chế qua cái gọi
là “đấu tố chính trị”; cụ Nguyễn Văn Tố bị thực dân Pháp nhảy dù ở
Bắc-cạn giết chết (?) (Bị chỉ điểm? Tại sao chỉ có cụ Tố, chủ tịch Quốc
hội bị chết?), Hồ đã thí cho “cẩu nô” họ Bùi cái ghế Quyền chủ tịch ủy
ban thường vụ quốc hội. Nếu quả rằng Bùi bằng Đoàn “liêm khiết đến mức
tuyệt đối” thì sao những người như luật sư Nguyễn mạnh Tường, nhà kinh
tế Hoàng văn Đức, thứ trưởng văn hóa Đỗ Đức Dục, giáo sư Trương Tửu và
nhiều văn nghệ sỹ, sinh viên… dám tố giác sai lầm của cải cách ruộng đất
v.v… Vậy mà Bùi bằng Đoàn hoàn toàn câm như chó ăn vụng bột trong chức
vụ dân cử cao nhất???!!!
Xưa Bùi bằng Đoàn đã nghe lệnh tên Khâm
sứ thực dân Pháp ở Trung kỳ để bỏ tù đày và giết những người Việt Nam
vô tội, những người Việt Nam yêu nước; “Mày Tao” với nhà đại ái quốc của
Việt Nam là cụ Phan Bội Châu. Khi thờ Hồ thì “thông qua” mọi chỉ thị
của Hồ nhằm “hợp pháp hóa” đường lối bán nước của lũ Việt gian Hồ chí
Minh cho Nga-xô và Tàu cộng.
Ngòi bút của Bùi Tín có thể ca ngợi một
kẻ có ăn học mà không bằng loài chó ngựa như vậy, đương nhiên hắn không
thể nào phân biệt nổi đâu là chính nghĩa. Chính vì thế, khi ra đến hải
ngoại, Bùi Tín đẻ ra những cuốn như “Hoa xuyên tuyết; Mặt thật; Mây mù
thế kỷ và rất nhiều bài viết khác nữa…” hoàn toàn bằng bút pháp lưu
manh, lý luận bất lương, thông tin lộn ngược. Chính với tâm trạng của
tên ăn trộm luôn luôn sợ bị bắt quả tang, nên Bùi Tín lúc nào cũng nói
đến: “sự thật, khách quan, không thêm bớt, bằng cái đầu lạnh và tỉnh táo
v.v…”
Bùi Tín luôn luôn để tính lưu manh dẫn
giắt, bịa ra nhân vật thứ ba – mà không nói cụ thể là ai – để mượn mồm
kẻ vô danh đó thóa mạ quân, dân, chính của Việt Nam Cộng Hòa, của cộng
đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.
Thí dụ1: Trong “Hoa xuyên tuyết”, trang 88, Bùi Tín viết:
“Chẳng phải trong số trên dưới 1 triệu
gọi là ngụy quân, ngụy quyền thì số bị đi cải tạo dài hạn chỉ bao gồm
trên 10 vạn người, nghĩa là chừng 1 phần mười, còn 9 phần mười đã được
hưởng quyền công dân ngay từ đầu rồi là gì? Chẳng phải đã có ông chuẩn
tướng Nguyễn hữu Hạnh tham gia Mặt trận tổ quốc thành phố Hồ chí Minh,
ông Nguyễn xuân Oánh, quyền thủ tướng cũ được bầu làm đại biểu quốc hội
rồi là gì?”
Về chuyện “cải tạo dài hạn”, Bùi Tín
càng lưu manh hơn khi hắn chơi trò xiếc chữ nghĩa. Trong “Hoa xuyên
tuyết”, trang 2, hắn viết như sau:
“Nói là giải phóng đất nước, giải phóng
đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các
trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày với biết bao
tủi cực và khổ đau…”(người viết nhấn mạnh các chữ trăm và ngàn)
Nếu bị giọt “nước mắt cá sấu” của Bùi
Tín làm mơ hồ, chúng ta dễ dàng bỏ qua chất lưu manh của họ Bùi khi hắn
dùng chữ trăm và ngàn thay cho tháng và năm. Thế hệ con em chúng ta và
những người nước ngoài làm công tác nghiên cứu sẽ nghĩ rằng:
- Trăm ngày có nghĩa là hơn ba tháng;
- Ngàn ngày có nghĩa là ba năm.
Như thế là đúng với lời tuyên bố, của
tên Phạm văn Đồng, cố thủ tướng ngụy quyền cộng sản, với phóng viên báo
chí trong và ngoài nước rằng “chính sách cải tạo” của chúng chỉ có thời
hạn là ba năm!
Thực tế là chí ít cũng hai hay năm năm;
còn hầu hết từ bảy hoặc tám năm cho đến trên mười lăm năm và khá nhiều
bị tù đến hai chục năm!
Bộ mặt của tên phản tỉnh cuội Bùi Tín – con trai của “cẩu nô” Bùi bằng Đoàn – là thế đó.
Thí dụ 2: Trong “Mây mù thế kỷ”, trang 32, Bùi Tín viết về quân lực VNCH như sau:
“Quân lực VNCH có những khó khăn, ở
ngay sự ra đời và phát triển của nó. Nó được chính quyền thực dân Pháp
lập nên, được người Pháp tổ chức và huấn luyện. Các sỹ quan cấp cao nhất
hầu hết là học ở các trường quân sự của thực dân Pháp. Các tướng Nguyễn
văn Thiệu, Nguyễn cao Kỳ, Nguyễn văn Hinh, Trần văn Đôn, Dương văn
Minh, Phạm văn Phú, Đỗ cao Trí, Ngô quang Trưởng, Đỗ Mậu… đều thế cả.
Trước nhân dân cả nước Việt Nam, trước dư luận quốc tế, quả thật là có
nhiều khó khăn, khi muốn dành cho quân đội ấy những chữ “yêu nước”,
“chính nghĩa”, khác hẳn với Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tất nhiên điều
này, anh em binh sỹ, sỹ quan sơ cấp và trung cấp của Quân đội VNCH không
chịu trách nhiệm. Nó thuộc về lịch sử.” (Người viết in đậm những chữ
cần lưu ý quý bạn đọc).
Bạn đọc tỉnh táo, đọc những câu trên,
sẽ thấy rõ hơn dòng máu “cẩu nô” chỉ đạo ngòi bút “tô hồng, bôi đen” của
tên, nguyên phó tổng biên tập, báo Nhân dân, cơ quan nói láo, của tập
đoàn Việt gian cộng sản.
Chính Bùi Tín cũng thừa nhận đại tướng
cộng quân Lê trọng Tấn là đội tàu bay của thực dân Pháp. Thêm nữa, những
tên như đại tướng Võ nguyên Giáp, trước 1945 là con nuôi chánh cẩm thực
dân Pháp là Marty, sau 1954 là con nuôi của bố Krút-xốp (Nga-xô); thiếu
tướng Lê thiết Hùng là thiếu tá quân của Trương phát Khuê (Tàu Tưởng);
đại tướng Lê đức Anh là cặp-rằng đồn điền cao-su của thực dân Pháp;
thượng tướng Chu văn Tấn là lính dõng thời thực dân Pháp; đại tướng Đoàn
Khuê, cả hắn và cha hắn đều là chánh tổng ác ôn; đại tướng Nguyễn chí
Thanh, tên đầu hàng, chỉ điểm cho Khâm sứ Trung kỳ của thực dân Pháp bắt
người trong tổ chức của hắn, trong số đó có Đặng xuân Thiều, anh em của
Trường Chinh. Kẻ tuân lệnh Khâm sứ Trung kỳ cho cả nút vào tù và đi
phát vãng lại chính là “cẩu nô” Hình bộ Thượng thư Bùi bằng Đoàn. Chính
“nhà văn không làm chính trị” Vũ thư Hiên, bỏ vợ con ở lại Việt Nam,
“trốn” từ Nga sang thế giới phương tây, để “tô hồng” cho những tên Việt
gian thân Nga-xô trong vụ án “xét lại” thành “những người đấu tranh cho
dân chủ”, thường được con gái Đặng xuân Thiều “tháp tùng”! Tên thượng
tướng Phùng thế Tài, nguyên tổng tham mưu phó kiêm tư lệnh và chính ủy
bộ tư lệnh phòng không, không quân ngụy quân lê dương cộng sản Việt Nam,
xuất thân từ một tên du đãng ở Vân-nam-phủ của Tàu, từ trước 1940, rồi
thành mật vụ của quân Tàu (Tưởng); tên thiếu tướng Tô Ký, trước 1975
từng là tư lệnh ngụy quân cộng sản quân khu Tây-Bắc, cũng là dân đâm
thuê chém mướn ở miệt Cửu-long, miền Nam Việt Nam v.v… Còn nhiều lắm
lắm, kể sao cho hết được. Những chuyện đó không thể nào Bùi Tín dám nói
là không biết. Nhất là cái lý lịch của tên Võ nguyên Giáp, từng là đại
tướng tổng tư lệnh kiêm bí thư quân ủy trung ương của ngụy quân cộng
sản, thì hắn có là con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp là Marty hay không,
và hắn có đầu hàng hay không thì các đại biểu trong đại hội 7 của Việt
gian cộng sản đều được đọc tài liệu do ban tổ chức đại hội phân phát.
Bùi Tín có dám chối là không biết không?
So sánh tướng lãnh của hai phía – thì
quân đội VNCH rõ ràng là yêu nước và chính nghĩa thực thụ 100%. Các
tướng lãnh của VNCH đã dám hy sinh vì dân vì nước như Ngụy Văn Thà,
Nguyễn Khoa Nam v.v… Còn các tướng ngụy quân cộng sản từ Giáp trở xuống,
từ Tô Ký trở lên, cho đến toàn bộ cái gọi là “quân đội nhân dân”, trong
đó có tên “cẩu nô” Bùi Tín, kể từ khi bỏ cái danh xưng “quân đội quốc
gia” – là danh xưng của lực lượng vũ trang hợp nhất của Chính phủ Liên
hiệp do Quốc hội Liên hiệp đa đảng (khóa 1) bầu ra – để thành “quân đội
nhân dân”, là lực lượng vũ trang bị Hồ lưu manh cho qua Tàu cộng tẩy não
trong các năm 1949-50, thì cái Quân đội đó đã thoái hóa thành “ngụy
quân cộng sản”, lính lê dương đánh thuê cho Nga-xô và Tàu cộng trong
việc bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ – tức chủ nghĩa
Marx-Lénine-Staline và tư tưởng Mao trạch Đông!!!
Chính Bùi Tín cũng thú nhận trong “Mây
mù thế kỷ”, trang 91 về danh xưng Quân đội Quốc gia bị đổi thành “quân
đội nhân dân”. Và, Bùi Tín thú nhận rằng:
“Chúng tôi cho thời kỳ 1947-1948 là thời kỳ đẹp nhất của trai trẻ, vô tư, hăng hái, lãng mạn.” (Mây mù thế kỷ, trang 91).
Tại sao? Vì thời kỳ đó lực lượng vũ
trang hợp nhất của các đảng phái trong Chính phủ Liên hiệp vẫn còn mang
danh xưng, quân đội quốc gia với tôn chỉ trung với nước, hiếu với dân.
Phải đến cuối năm 1949, Mao thống trị cả lục địa Tàu thì tên Việt gian
Hồ chí Minh lấy cớ luân phiên đưa quân đội quốc gia qua Tàu cộng huấn
luyện, trang bị lại để tẩy não, áp đặt khiến những người lính quốc gia
mất hết cả “vô tư, hăng hái, lãng mạn” – như Bùi Tín viết, biến chất
thành lũ lê dương người Việt đánh thuê cho tập đoàn thực dân đỏ Nga-xô –
Tàu cộng. Có nghĩa họ đã bị “dã thú hóa” thành lũ Việt gian vũ trang,
công cụ chuyên chính của tập đoàn Việt gian cộng sản theo tôn chỉ mới –
khi núp dưới danh xưng quân đội nhân dân hay Bộ đội cụ Hồ – là trung với
đảng (Việt gian cộng sản). Vì thế mặt mũi chúng lúc nào cũng như “hiền
triết phương đông” như ngôn ngữ của bút nô Lữ Phương; mở mồm là như con
vẹt, leo lẻo về chủ nghĩa Mác cùng Lê (nghe mà tởm), và khi có súng
trong tay chúng “hồ hởi, phấn khởi” bắn thoải mái vào trường học, chợ
búa, buôn làng của dân v.v… không phân biệt nổi đúng, sai.
Rành rành như vậy mà Bùi Tín kết luận “lộn tùng phèo” y như kết luận về anh em cẩu nô của thực dân Pháp là 3 tên họ Bùi.
Yêu nước mà theo lệnh của lũ sát nhân,
trong đó có Trần Độ, để bắn vào những đồng đội của trung tá Ngụy Văn Thà
đang làm nhiệm vụ đánh quân Tàu cộng xâm lược các hải đảo Việt Nam. Đấy
là yêu nước Tàu cộng, hiểu chưa hả đại tá lê dương đỏ Bùi Tín???
Chính nghĩa mà chấp nhận thân phận quân
xâm lược để bị xích cẳng vào xe tăng và đại pháo, uống thuốc kích thích
để tàn sát dân lành như vụ Mậu Thân (1968) ở Huế, giết đồng bào sắc tộc
thiểu số ở Hà-giang, đồng bào theo đạo công giáo ở Khu Bốn cũ; đồng bào
theo đạo Tin lành ở Tây-nguyên v.v…
Thí dụ 3: Trong “Mây mủ thế kỷ”, trang 54, Bùi Tín viết:
“Tôi đã gặp một số vị trong chế độ
Sài-gòn cũ, có vị là trung tướng nói với tôi rằng: “Nếu chúng tôi chiến
thắng, tức miền Nam thắng miền Bắc, không chắc chính sách của chúng tôi
đối với các ông đã hơn gì so với chính sách của các ông đối với chúng
tôi. Có khi chúng tôi lại có những trại giam tàn bạo hơn.” Ngay một số
trí thức từng ở trong chính quyền miền Nam cũng tỏ ra phủ nhận bộ máy
lãnh đạo của chế độ VNCH trước đây và phủ nhận cả lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam
đã nói với tôi: “Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu
biểu cho một chế độ quan liêu quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng
tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ đó đã thất trận, thất trận do
thối nát, thiếu sáng suốt, phải bỏ nước chạy ra nước ngoài.” ở trong
nước, đồng bào ta, kể cả những người từng sống trong chế độ Sài-gòn cuõ,
cũng không nuối tiếc và hy vọng gì về những người “quốc gia” ở nước
ngoài, vì họ không tác động có hiệu quả đối với đất nước, trong khi phần
đông họ chỉ cổ vũ hận thù và một thời gian còn có không ít người chủ
trương dùng bạo lực.”
Bộ óc lưu manh của Bùi Tín “bịa” ra
những “nhân vật thứ ba” để nói lên chính ý nghĩ của hắn và đồng bọn. Thử
hỏi: “một số vị” là bao nhiêu người, tên tuổi; tên vị “trung tướng” là
gì?; “một số trí thức” là bao nhiêu người, tên tuổi, học vị, ngành nghề
trước 1975 và hiện nay; “nhiều người trước kia” v.v… cũng thế, bao nhiêu
người tất cả, họ xếp hàng trước mặt Bùi Tín đồng thanh tuyên bố: “Chúng
tôi muốn quên cờ vàng ba sọc đỏ…” hay sao, hay từng nhóm, từng người
xin gặp Bùi Tín để nói như vậy. Rồi nữa, Bùi Tín sử dụng cơ quan thăm dò
nào, tổ chức thăm dò ra sao, ở đâu, lúc nào, mà biết được “đồng bào ta”
và “những người từng sống trong chế độ Sài-gòn cũ”, không nuối tiếc và
không hy vọng gì về những người “quốc gia” ở nước ngoài…
Viết lách như vậy mà cũng đòi cầm bút
và nói đến trung thực. Cũng chẳng lạ gì, vì Bùi Tín chính là hậu thân
của Bùi bằng Đoàn – kẻ dám gọi nhà đại ái quốc Phan Bội Châu của Việt
Nam là “mày”. Và, như Bùi Tín, khoe, được đích thân tên đại diện cho
“hồng” trong ngụy quân Việt gian cộng sản, Nguyễn chí Thanh, sau khi
thanh lọc xong những phần tử gọi là “xét lại” (tức Việt gian thờ Nga-xô
làm thầy) trong tờ báo lá cải mang tên “Báo Quân đội Nhân dân”, chọn lọc
cho vào hàng ngũ “bút nô” “tô hồng, bôi đen” chuyên nghiệp. Cái nguồn
gốc xuất thân và tên tuổi quan thầy của Bùi Tín đủ biểu hiện rõ Bùi Tín
là loại… “mặt người dạ thú”!
Việt Thường, Nam Nhân và Lý Tuấn