Bai 2- Ai là ngụy quân?
Thưa ông Bùi Tín,
Ông cũng đã sai lầm khi viết rằng quân đội là do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo". Sự thật là cộng sản tận cuối tháng 12-1944 mới cho ra đời được một trung đội vũ trang, do Hoàng quốc Việt làm lễ trao cờ ở Tân Trào. Nhìn tấm ảnh chụp thì thấy có chừng ba chục mống là cùng, với Võ nguyên Giáp làm trung đội trưởng. Trong hồi ký của trung tá Nguyễn văn Rạng, một trong số người của cái trung đội ấy, có kể là được học tập "điều lệ của Việt Minh" mà thôi.
Về Việt Minh (cả tên là
Việt Nam Độc lập Đồng minh hội) ra đời từ 1936, do cụ Hồ học Lãm, một người
Việt Nam yêu nước, lập ra ở bên Tàu, nhằm tập hợp mọi cá nhân có chung mục
tiêu giành độc lập cho Việt Nam, có thể có đường lối khác nhau, nhưng cùng
sinh hoạt trong tổ chức này để được chính phủ Tưởng giới Thạch khi đó cấp
kinh phí cho hoạt động. Tổ chức ra đời, có ký danh với trung ương Quốc dân
đảng của Tàu. Khi Hồ chí Minh bị tướng Trương phát Khuê bắt bỏ tù vì nghi là
hoạt động cho cộng sản, Hồ năn nỉ để được các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải
Thần, nhân danh Việt Minh, bảo lãnh cho ra tù. Hồ xin gia nhập Việt Minh và
xin được về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Chính nhờ cái "lốt Việt Minh"
che đậy bộ mặt dra-cu-la cộng sản mà Hồ đã đánh lừa được nhóm thanh niên gồm
hơn 40 người do tổ chức Việt Cách của cụ Nguyễn hải Thần móc nối qua Tàu và
được Trương trung Phụng huấn luyện về quân sự. Cái nhóm đó chính là bọn Chu
văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần Sâm, Hồng Kỳ sau này, tưởng Hồ là Việt Minh thứ
thiệt nên chịu để Hồ giảng dạy về "Điều lệ của Việt Minh", và họ quay về
nước hoạt động phát triển Việt Minh.
Cho nên Việt Minh thật
ra không phải là tổ chức của cộng sản. Điều lệ của Việt Minh không khát máu,
nói chung, như cộng sản, nên nó có hiệu quả hơn khi vận động quần chúng tham
gia.
Đội lốt Việt Minh, Hồ đã
cướp không được hơn bốn chục cán bộ khung và dễ dàng mở rộng địa bàn ở biên
giới. Vì thế, Hồ đã liên lạc với Trường Chinh, Hoàng quốc Việt để họp ở Cao
bằng (1941) đưa ra âm mưu mượn danh Việt Minh hoạt động cho cộng sản. Sau
này chúng trân tráo rằng Việt Minh là do chúng nặn ra!!!
Nhờ trong lốt Việt Minh,
bọn Hồ đã dựng ra được cái gọi là "cách mạng tháng tám 1945". Và, để chắc ăn
hơn, Hồ cho giải tán đảng cộng sản Đông dương.
Nếu cộng sản có "uy tín
trong dân" thì tại sao bọn cộng sản lại tuyên bố giải tán đảng của chúng?
Và, còn ma mãnh hơn nữa, trong thư gửi tướng Trần tu Hòa (18), đề ngày
19-12-1945, Hồ khẳng định: "Việt Minh không phải là một đảng chính trị",
mà có nhiều thành phần tham gia.
Có thể ông (và một số
người khác) sẽ hỏi: tại sao Hồ lại nắm được chính quyền?
Đúng là Hồ đã nắm được
chính quyền, không phải do đảng cộng sản của Hồ được dân tín nhiệm, không
phải các đảng phái không cộng sản yếu kém, như sau này các bồi bút cộng sản
xuyên tạc sự thật lịch sử.
Đảng cộng sản Đông dương
của Hồ có được dân Việt Nam tín nhiệm không, thì chỉ nguyên cái việc vào
thời điểm dầu sôi lửa bỏng như vậy mà chúng phải tự giải tán đảng cũng đã là
một câu trả lời rõ ràng nhất rồi. Có điều là các đảng phái không cộng sản;
các nhân sỹ, trí thức yêu nước; các phong trào quần chúng tự phát; các tổ
chức tôn giáo; cho đến cả Hoàng đế Bảo Đại, chính phủ Trần Trọng Kim v.v…
đều chỉ biết vui mừng thấy sau khi Nhật đảo chính Pháp thì đến lượt Nhật đầu
hàng đồng minh (15-8-1945), nằm yên chờ giải giới. Mọi người đều náo nức
thấy sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nền độc lập của đất nước đã lấp
ló như rạng đông nên mất cảnh giác dễ dàng để Hồ lừa. Mọi người, mọi tổ chức
(trừ Hồ và bọn chóp bu của đảng cộng sản Đông dương) đều đấu tranh cho mục
tiêu của độc lập, không có tham vọng thống trị như Hồ và bè lũ cộng sản, vì
thế Hồ đã lừa đảo tất cả để cố "cướp lấy chính quyền", là cái mục tiêu chủ
yếu mà thực dân đỏ Nga-xô giao nhiệm vụ cho hắn khi thành lập đảng cộng sản
Đông dương từ 1930. Cho nên khi ấy chẳng ai nghĩ đến "cướp chính quyền"
trong tay chính phủ Trần Trọng Kim của Hoàng đế Bảo Đại, loại trừ Hồ và bè
lũ là có âm mưu đó. Chúng dựa hơi vào các cuộc tuần hành tự phát của quần
chúng và của các đảng phái không cộng sản, biến cuộc biểu dương lực lượng
lập lờ thành sức ép của quần chúng, và qua tên Tôn quang Phiệt, móc nối với
thư ký riêng của Hoàng đế Bảo Đại là Phạm khắc Hòe, để tên này báo cáo láo
với Hoàng đế Bảo Đại, khiến Ngài vốn không thích cầm quyền nên đã sẵn sàng
thoái vị, trao quyền lại cho toàn dân. Lòng lương thiện cả tin của từ Hoàng
đế Bảo Đại cho đến cụ Trần Trọng Kim và các nhân sỹ, trí thức yêu nước đã dễ
dàng bị mắc quả lừa của tụi cộng sản.
Thành công bằng sự "tháu
cáy" đó nên Hồ sợ phản ứng của nhân dân. Hắn vội vàng mời hoàng đế Bảo Đại
làm cố vấn tối cao, cho Phạm khắc Hòe (thư ký của Bảo Đại) làm đổng lý văn
phòng Bộ Nội vụ; mời hầu hết các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim
tham gia chính phủ; mời các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, các quan lại cũ
như thượng thư Bùi bằng Đoàn (cụ thân sinh của ông Bùi Tín); khâm sai đại
thần Phan kế Toại; tổng đốc Hồ đắc Điềm; các tri phủ Tạ quang Đạm, Dương văn
Đàm v.v., dùng Vũ đình Huỳnh, một người gia đình họ hàng là công giáo toàn
tòng làm trong ban thư ký, để yên lòng giáo dân và từ đó đi Phát Diệm gặp
Đức Cha Lê Hữu Từ mời vào ban cố vấn. Hồ còn đề nghị cấp tiền nuôi dưỡng cho
các bà vợ của các vua Thành Thái và Duy Tân; cho in tem chân dung của Nam
Phương hoàng hậu. Hồ còn đến Văn miếu dâng hương đức Khổng tử; dự giỗ tổ
Hùng Vương, làm kỷ niệm ngày mất của Phan chu Trinh và đề nghị hoãn lệnh của
chính phủ Trần Trọng Kim triệt hồi và truy tố các tham quan (19), xin được
hợp tác với các đảng phái không cộng sản, và tuyên bố giải tán đảng cộng sản
Đông dương.
Thủ đoạn lưu manh chính
trị đó đã giúp Hồ được mọi người coi như là một "nhà nho yêu nước", nhất là
Hồ cho loan tin rằng Hồ là con một phó bảng, một người đã từng được chung
sống với cụ Phan chu Trinh ở Paris (Pháp). Và được cụ Phan dạy cho nghề ảnh.
Cùng lúc Hồ cho tung tin Hồ giống như công tử Trùng Nhĩ (tức Tấn văn Công
trong Đông Chu liệt quốc). Cho nên phần lớn không coi Hồ là cộng sản và sẵn
sàng vì việc chung của đất nước mà hợp tác với Hồ.
Cho nên cái gọi là "cách
mạng tháng tám" không có đổ máu. Đó là một sự chuyển tiếp hòa bình quyền lực
cho toàn dân mà tụi lưu manh cộng sản đội lốt Việt Minh giành phần, bịa đặt
"cướp công" thành "cướp chính quyền"; bịa chuyện đánh Nhật, đuổi Pháp mà
trên thực tế Pháp đã bị Nhật lật đổ và đến lượt Nhật bị đồng minh bắt hàng
không điều kiện. Chỉ đến khi nhận được ấn, kiếm của Hoàng đế Bảo Đại trao
cho, tụi cộng sản mới hơi lòi bộ mặt lưu manh trộm cắp. Đó là việc tên Trần
huy Liệu cho giết Phạm Quỳnh và con là Phạm Giao và Trần huy Liệu còn cưỡng
ép vợ Phạm Giao làm vợ lẽ của hắn. Hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Giao không
liên quan gì đến chính phủ Trần Trọng Kim.
Ở Việt Nam, chính phủ Trần
Trọng Kim có thể tạm ví như chính phủ dân chủ Kêrenski ở Nga tháng 2-1917.
Và Hồ đã áp dụng kiểu như Lê-nin với Kêrenski. Có điều bọn cộng sản Hồ chí
Minh không được quần chúng đông đảo hậu thuẫn, tổ chức mỏng và lực lượng vũ
trang có mỗi trung đội của Võ nguyên Giáp và Chu văn Tấn, vì thế Hồ phải
giải tán đảng cộng sản Đông dương và chui đầu núp vào danh tiếng của Hoàng
đế Bảo Đại, của các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim, của các đảng
phái không cộng sản, của các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, của các vị lãnh
đạo tinh thần có uy tín, nhằm tạm thời che đậy bộ mặt Việt gian, tay sai của
thực dân đỏ Nga-xô.
Nếu không kịp thời giải
tán đảng cộng sản Đông dương và lờ đi cái tên Nguyễn ái Quốc, chắc chắn toàn
dân Việt Nam sẽ không mơ hồ để phải chịu đựng quãng thời gian làm nô lệ cho
thực dân đỏ gần dài bằng nô lệ cho thực dân Pháp (tính cho đến nay).
Mặc dù đa số đang ngây
ngất men chiến thắng vì Pháp đổ, Nhật đầu hàng Đồng minh, được tự do đi lại
ăn nói hội họp nên mơ hồ, nhưng vẫn không ít người sáng suốt nhìn được rõ
con quỷ đỏ dra-cu-la Hồ chí Minh, như Trương tử Anh của Đại Việt, như Lý
Đông A, như Khái Hưng, như Ngô đình Diệm v.v. và sau vụ này là Đức Cha Lê
hữu Từ, cụ Trần Trọng Kim và cả cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức cựu Hoàng Bảo
Đại). Vì thế Hồ đã cho mật lệnh thủ tiêu những người yêu nước không là cộng
sản, kể cả những nhân vật trotskít như Tạ thu Thâu, Phan văn Hùm cũng như vu
khống, bôi nhọ uy tín của các đảng phái không cộng sản và lãnh tụ của các
đảng phái đó.
Khi đã nắm được chức chủ
tịch của Chính phủ Liên hiệp, một trong những mối lo hàng đầu của Hồ là phải
nắm lực lượng vũ trang. Để tránh lộ liễu, Hồ để những nhân vật không đảng
phái hoặc đảng phái khác nắm bộ quốc phòng, cụ thể là cụ Vũ hồng Khanh làm
bộ trưởng, thế là VNQDĐ của cụ Vũ hồng Khanh há miệng mắc quai khi Hồ cử các
nhà quân sự của VNQDĐ vào Nam, như tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v… Rồi
Hồ lấy cớ cần người có uy tín đi ký Hiệp định Sơ bộ 9-3 ở Đà-lạt, để cử cụ
Vũ hồng Khanh đi, nghĩa là lột chức đầy quyền lực của Vũ hồng Khanh. Và Hồ
đề cử luật sư Phan Anh, một người không đảng phái, từng là bộ trưởng trong
chính phủ Trần Trọng Kim, giữ ghế Bộ trưởng Quốc phòng. Như vậy làm sao ai
dám ngờ dã tâm của Hồ. Tiếp theo, Hồ cho lập Quân ủy hội song song với Bộ
quốc phòng, và cử Võ nguyên Giáp làm chủ tịch Quân ủy hội, và cụ Vũ hồng
Khanh, ký hiệp định Sơ bộ 9-3 về, làm phó chủ tịch Quân ủy hội. (20)
Ngày 22-5-1946, Hồ ký
sắc lệnh số 71 về việc tổ chức quân đội (hợp nhất của các đảng phái, kể cả
bảo an binh của chính phủ tiền nhiệm Trần Trọng Kim) và gọi là Quân đội Quốc
gia. (21)
Thời gian đó ở phía Bắc,
quân Tàu Tưởng, vào giải giới quân Nhật, gây nhiều chuyện nhố nhăng, quân
Pháp lăm le quay trở lại. Còn phía Nam thì lính Pháp theo chân quân đội Anh
vào giải giới quân Nhật bắt đầu gây chiến. Cả nước khí thế như núi lửa,
thanh niên nam nữ ai cũng muốn gia nhập lực lượng vũ trang. Những nhà giàu
bỏ tiền thành lập quân đội, như bà Cát thành Long chẳng hạn, đã nuôi hàng
trung đoàn quân và cả hai con trai cùng gia nhập quân đội. Dựa vào khí thế
đó, Hồ đã đội lốt Chính phủ Liên hiệp kêu gọi thanh niên nhập ngũ bảo vệ Tổ
quốc. Các trường quân chính được mọc lên.
Ngày 26-5-1946, Hồ cùng
bộ trưởng quốc phòng là luật sư Phan Anh, chủ tịch quân ủy hội là Võ nguyên
Giáp lên Sơn-tây dự lễ khai giảng lớp võ bị Trần Quốc Tuấn. Giám đốc trường
là huynh trưởng hướng đạo sinh Hoàng đạo Thúy (không đảng phái) thay mặt
trường nhận cờ Hồ tặng, có thêu tôn chỉ của quân đội quốc gia là: "Trung
với nước, hiếu với dân". (22)
Thưa ông Bùi Tín,
Những điều chúng tôi nêu trên là trích dẫn từ sách, báo, hồi ký, tư liệu lưu trữ của cộng sản. Điều đó đã chứng minh rằng cộng sản không phải là kẻ tổ chức và lãnh đạo quân đội.
Vì lòng yêu nước, các
đảng phái, các cá nhân không cộng sản đã hòa giải, hòa hợp với nhau và với
cả Hồ để cho ra đời Chính phủ Liên hiệp. Cái Chính phủ Liên hiệp đó mới là
cha đẻ ra quân đội hợp nhất của các đảng phái, của bảo an binh và mang tên
QUÂN ĐỘI QUỐC GIA. Quân đội đó ra đời để bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn
lãnh thổ Việt Nam, với tôn chỉ:
TRUNG VớI NUớC, HIẾU VớI DÂN.
Từ 1930, theo lệnh thực
dân đỏ Nga-xô, Hồ đã thành lập đảng cộng sản Đông dương làm công cụ bành
trướng chủ nghĩa thực dân đỏ ra toàn cõi Đông dương.
Hồ không phải như Trường
Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn văn Linh, chỉ loanh quanh trong 3 miền Bắc, Trung,
Nam của Việt Nam, không phải như me-xừ hoạn lợn (mà ông sáng tác thành thợ
chữa khóa dạo) là Đỗ Mười, chỉ loanh quanh mấy chợ quê để thiến heo, hay như
Lê khả Phiêu, cao nhất là tới đất Căm-bốt lúc đã bị tụi cộng sản thân Tàu
tàn phá, mà Hồ từng sống trên khắp các nước Pháp, Anh, Mỹ, Tàu, Thái lan,
Nga-xô. Nghĩa là Hồ không chỉ nghe nói mà là đã nếm, đã thử, đã sống trong
một loạt xã hội có chế độ chính trị khác nhau. Nghĩa là Hồ có điều kiện thực
tế để so sánh cái hơn cái kém của các thể chế chính trị đó. Hồ đã chứng kiến
những vụ thanh trừng nội bộ, tàn sát nhân dân, âm mưu bành trướng bá quyền
của Stalin. Và, chắc chắn Hồ phải hiểu rõ mục đích thành lập đảng cộng sản
Đông dương để làm gì, lợi cho ai, hại cho ai?
Chính vì thế Hồ mới bán
cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp mới phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái
Học; mới giết, bôi nhọ những người yêu nước v.v… Cho nên Hồ đã cố tình xóa
bỏ công lao của Chính phủ Trần Trọng Kim đã thổi bùng trở lại tinh thần yêu
nước của nhân dân trên toàn cõi Việt Nam; đã tạo ra tiền đề cho sự hòa giải,
hòa hợp của toàn dân Việt Nam, để cuối cùng Hồ là kẻ thủ lợi.
Sau khi Tàu cộng làm chủ
lục địa, Hồ cho quân đội quốc gia luân phiên qua Tàu để tẩy não, để ồ ạt kết
nạp vào cộng sản. Và cuối cùng thì như ông đã viết trong sách của ông rằng:
"Đảng lãnh đạo thường xuyên, liên tục, toàn diện và tuyệt đối quân đội
ta"(23).
Kể từ khi hoàn toàn làm
chủ được quân đội quốc gia, Hồ đã đánh tráo cái tên quân đội quốc gia thành
quân đội nhân dân hoặc "bộ đội cụ Hồ"! Và cái tôn chỉ ban đầu của Quân đội
Quốc gia là "Trung với nước, hiếu với dân" bị biến chất thoái hóa thành
"trung với đảng, hiếu với dân"; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Cuối năm 1951, đảng cộng
sản Đông dương, từng giả vờ tự giải tán để hoàn thành việc lừa đảo toàn dân
Việt Nam, lộ diện trở lại với cái tên hiền lành và mơ hồ hơn gọi là "đảng
Lao động Việt Nam". Kể từ đó, mọi chính sách của Hồ đều nhằm vô hiệu hóa sự
hoạt động của Quốc hội khóa 1 (của nhiều đảng phái không cộng sản), tiến tới
âm thầm đảo chính Chính phủ Liên hiệp. Gọi là đảo chính âm thầm, vì Hồ chỉ
cốt tước thực quyền của thành viên chính phủ không là cộng sản, lưu giữ họ
lại làm bù nhìn nhằm lèo lái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực
dân Pháp thành cuộc chiến của thực dân đỏ nhằm giành giật 3 nước Đông dương
trong tay thực dân Pháp.
Tuy đã nắm trọn quyền về
lực lượng vũ trang, nhưng Hồ còn muốn lực lượng vũ trang phải hoàn toàn
trung thành mù quáng đối với Hồ. Vì thế hắn đã sai Lê văn Lương, trưởng ban
tổ chức trung ương, ký quyết định về "chế độ ngày sinh hoạt đảng trong
quân đội" vào ngày 15-3-1954. (24)
Và biện pháp chủ yếu Hồ
dùng để làm đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp là "giảm tô và cải cách
ruộng đất" và "chấn chỉnh tổ chức".
Để che giấu âm mưu đen
tối nói trên, trong phiên họp ngày 15-3-1954 của hội đồng chính phủ, Hồ đề
nghị thông qua điều lệ tổ chức ủy ban cải cách ruộng đất trung ương và danh
sách các ủy viên của ủy ban này.
Âm mưu đó bộc lộ trắng
trợn trong "Thông tri của ban bí thư"(25) do Lê văn Lương ký ngày 22-5-1954,
gửi các Liên khu ủy Việt Bắc, III, IV, khu ủy Tây Bắc và các Đoàn ủy cải
cách ruộng đất và giảm tô. Trong thông tri có những đoạn đáng chú ý như:
"Ban thường trực ủy
ban cải cách ruộng đất Trung ương phụ trách giải quyết công việc hàng ngày
gồm một số đồng chí trung ương (tức cộng sản). Như vậy rất tiện cho Trung
ương dùng danh nghĩa công khai để chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm
tô và cải cách ruộng đất."
"Phải coi những chỉ
thị, thông tri ấy như của trung ương Đảng và phải chấp hành nghiêm chỉnh."
"Những vấn đề thuộc
về nội bộ Đảng hoặc cần giữ bí mật không tiện dùng danh nghĩa công khai,
Trung ương (tức cộng sản) sẽ gửi cho các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy, và
các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy cũng báo cáo trực tiếp lên trung ương
(tức cộng sản) những vấn đề thuộc nội bộ đảng."
Cái "cần giữ bí mật" đó
là mượn cớ cải cách ruộng đất để thanh lọc tận cơ sở những đảng phái, cá
nhân, tổ chức không là cộng sản và cả những đảng viên cộng sản mà Hồ "mở cửa
đảng" tổ chức kết nạp ồ ạt. Giờ đây thành phần tổ chức đảng ở cơ sở phải đảm
bảo "trung với đảng" như quân đội vậy. Nghĩa là phải trung với Hồ, hay nói
cách khác là phải trung với mẫu quốc đỏ Nga-xô.
Kết thúc cái gọi là "rèn
cán, chỉnh quân" và thường xuyên thanh lọc qua "Quyết định về chế độ ngày
sinh hoạt đảng trong quân đội", được ký ngày 15-3-1954, thì kể từ đó cái gọi
là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là ngụy quân. Nhiệm vụ của ngụy quân
cộng sản là hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào mà đảng – tức nhóm lãnh đạo chóp
bu – ra lệnh.
Sau cải cách ruộng đất,
chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh thì Việt Nam (phía Bắc sau 1954 và cả nước sau 30-4-1975)
thưc tế là thuộc địa đỏ, bị cai trị bởi tụi cộng sản là tổ chức Việt gian,
tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu.
Dám nhìn vào sự thật mới
có thể lý giải được vì sao các chính sách của cộng sản đề ra đều chống lại
quyền lợi của nhân dân và đất nước Việt Nam, từ khi Hồ còn sống cho đến tất
cả lũ thừa kế Hồ là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả
Phiêu và nay là Nông đức Mạnh. Dám nhìn vào sự thật này mới hiểu tại sao cái
gọi là quân đội nhân dân Việt Nam lại có thể pháo kích vào trường học, chợ
búa, nhà thờ, đền chùa, giết dân như vụ tàn sát gần 2 vạn người Mèo ở hai
huyện Phó Bảng và Mèo Vạc ở Hà-giang; tàn sát giáo dân ở Nghệ-an, Quảng-bình;
tàn sát nhân dân ở Huế (1968); xâm lược miền Nam Việt Nam, trấn áp và tàn
sát đồng bào thiểu số ở Tây-nguyên; sau 30-4-1975 đã tàn phá các thành thị ở
miền Nam khiến trong cuốn "Mặt thật" ông đã phải viết rằng: "xử sự như
những đội quân chiếm đóng".
Thưa ông Bùi Tín,
Ông đã tiệm cận với sự thật. Chúng "xử sự như những đội quân chiếm đóng" là vì cái sự thật rành rành mà ông chưa muốn thấy. Đó là:
Cái gọi là quân đội nhân
dân Việt Nam thực chất là ngụy quân, công cụ của tập đoàn Việt gian
cộng sản Việt Nam, tay sai của đế quốc đỏ Nga-Tàu.
No comments:
Post a Comment