Sinh Mệnh Việt Qua Văn Hiến
Việt
(Ghi chú: Đây là nguyên văn ghi lại cuộc nói
chuyện kéo dài nhiều kỳ, về văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Chính Trung, vào thời điểm năm 2000. Phần trình bày
dưới đây do Ngô Tùng Việt đảm trách thực hiện)
*
- Chữ Trung mình để phần Cha
*
- Chữ Hiếu cho Mẹ, đôi ta chữ Tình
(Ca
Dao)
1). Từ Nhân Đến Quả
Nhân-Quả là một chu kỳ nằm trong tiến
trình: Sống, Còn, Nối, Tiếp, Tiến, Hóa đến vô cùng của muôn vật muôn loài. Nhân-Quả
cũng là tóm lược của chu kỳ nhiều phức tạp chứa đầy những trợ duyên Thuận-Nghịch
trong một sự tổng hợp gồm đủ cả không gian lẫn thời gian. Nhân là cái mầm mống
phát sinh ra sự kiện, đó cũng là khởi điểm. Quả là cái hình thành được tạo
dựng, đó cũng là đích điểm. Ở loài thảo mộc, nhân là hạt giống được gieo trồng
trên đất để theo ngày tháng nẩy mộng đâm mầm, thành cây xanh lá rậm, rồi đâm
cành trổ bông, để đến sinh trái, kết quả. Ở loài người, nhân là tinh cha huyết
mẹ và quả là kết con sinh cái (con cái). Vì vậy chẳng bao giờ một vật gì bỗng
không lại có. Tất cả được tạo nên bởi một nguồn gốc một nguyên nhân. Trồng dưa
thì được ăn dưa, trồng cà thì được ăn cà và con nhà tông không giống lông cũng
giống cánh.
Không có tổ tiên, ông bà tất không
có cha mẹ. Không có cha mẹ tất cũng không có con cái và không có Ta hiện diện
trên cõi đời này ! Tổ Tiên, Giòng Giống, Cha Mẹ là điều mà đã là người thì
chẳng ai dám dứt bỏ hay từ chối. Đó là những mối giây lớn kết nối ta với đồng bào,
đồng loại, giằng kéo bắt Ta cắn chặt răng để chịu thua thiệt, đứng vững gót để
được làm người ở ngay cả trong một xã hội hư hèn, biến loạn. Mối giây lớn đó
được gọi là Duy Nhân Cương Thường
trong tương quan nhân tính. Vì vậy mà người xưa có câu:
*
- Đọc tám vạn nghìn từ mặc kệ
*
- Không quân thần phụ tử chẳng ra người
(Nguyễn
Công Trứ)
Nhìn ngược lại giòng lịch sử, suốt
từ Đông sang Tây, không ai là không do cha mẹ sinh ra với những ẩn tích không
thể tẩy xóa về gia thế, giòng dõi và chủng tộc. Thích Ca là con vua Sudhodana
Gautama thuộc bộ tộc Sakyas bên Ấn Độ. Jésus Christ là con bà Maria giòng dõi
vua David xứ Do Thái bên Trung Đông. Và dân tộc Việt Nam chúng ta, cùng với 99 giòng
Việt khác đã cùng có chung một mẹ một cha “cha
là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ” mang một thân xác da vàng và giòng máu luân
lưu dào dạt ý chí quật cường, bất khuất ...
Nếu người ăn quả còn biết nhớ kẻ
trồng cây, uống nước còn nhớ đến nguồn thì sự yêu cha mẹ, kính ông bà, tôn sùng
tổ tiên và anh hùng liệt nữ chỉ là làm một điều thuận với lẽ thường hằng, hợp
với một chân lý phổ quát: Đạo Hiếu.
Bài viết này không bàn sâu về Đạo Hiếu, nhưng trình bày về Việt Nam như một quê
hương của nòi tình, mà ở đó người đàn bà vì thấm nhuần đạo hiếu đã giữ một vai
trò quan trọng trong việc đóng góp công sức, hy sinh một cách thản nhiên và
lặng lẽ để làm cho tổ quốc vinh quang, dân tộc được trường tồn qua sự hoàn tất
những nhiệm vụ liên tiếp của một chu kỳ sống “một đời người”, như làm theo
trách nhiệm của một đứa con hiếu thuận, làm một người vợ đảm ngoan chung sức
cùng chồng tát cạn biển đông, làm bổn phận người mẹ quên mình vì con mà tận tụy
một đời với những lo nghĩ yêu thương.
2). Tình: Những Sắc Thái Của Nhân Tính
Đã là người, tất khi sinh ra đã có
đủ những nhân tính căn bản. Sống là một tiến trình biểu lộ tình cảm qua những
phát huy nhân tính:
2a).
Tình cảm
Tình có bảy thứ gọi chung là “thất
tình” gồm những biến thái như: Thương, ghét, vui, buồn, sợ, muốn, giận. Tình
nằm sâu trong tâm hồn con người, nhưng bản chất của tình thì động. Vì vậy, chữ
tình (情)
được viết bằng bộ Tâm (心) là
trái tim và chữ Thanh (青) mầu
xanh lá cây. Về ý nghĩa mầu sắc, xanh lá cây tượng trưng cho sự tươi trẻ, thanh
xuân, nhưng theo ý nghĩa của y lý Đông Phương qua triết lý ngũ hành thì xanh
thuộc Mộc (cây). Ở con người, Mộc chủ về gan mật mà gan mật thì liên quan tối
gân cốt để hành động. Do đó, người xưa thường khen kẻ dám làm là can đảm hay là
to gan lớn mật. Tình tuy bản chất động nhưng chỉ phát lộ ra ngoài khi bị cảm kích
bằng ngoại cảnh. Cảnh sinh tình, nên vì tương quan nhân quả, tình thường được
ghép chung với cảm. Cảm ( ) gồm chữ Tâm ( 心 ) ở
dưới và chữ Hàm ( 咸 ) ở
trên. Hàm có nghĩa là khắp cả, đều hết. Nghĩa là khi tình cảm ở tâm bị kích
động thì sẽ lan truyền ra khắp hết thân thể để biểu lộ bằng hành động.
2b).
Tình Nghĩa
Tình tuy có tới thất tình, nhưng khi
nói đến tình thì con người đều thường chỉ nghĩ đến cái khía cạnh tốt đẹp của nó
là yêu thương, tình ái. Ngay cả đến yêu thương cũng có những khung bậc (bệ,
bậc) khác nhau tùy đối tượng như yêu cha mẹ, anh em ... nhưng đa số cũng chỉ
nghĩ đến sự yêu thương giữa trai và gái qua chữ tình ái. Tuy nhiên, đó cũng chỉ
là điều thông thường, vì đó là đầu dây mối nhợ căn bản để nẩy sinh những mối
tương quan nhân tính khác theo luật nhân quả. Có tương quan vợ chồng rồi mới có
tương quan cha mẹ, con cái. Khi sống thành xã hội phồn tạp mà muốn tránh hỗn
loạn thì phải có trật tự, có ngôi thứ trên dưới, vì vậy mà có vua tôi, quan
dân. Những mối quan hệ này người xưa gọi là Tam Cương, ba giềng mối lớn chi
phối toàn diện sinh hoạt con người trong xã hội.
Đa cảm tất đa tình ! cổ nhân đã có
câu: “Tình như tình để”. Nghĩa là tình cảm như mạch nước ngầm, nơi đáy giếng
với những vơi đầy bất tận. Tình là thứ nhu nhuyễn không có hình thức nhất định,
ví như nước mà đặc tính của nước là thẩm thấu, ngấm ngầm để mang sự sống cho
muôn loài . Không có nước tất đất sẽ khô cằn không thể trồng trọt, không có
nước tất không có sự sống, nhưng nước quá nhiều cũng gây thành úng lụt tàn hại
mùa màng hủy diệt sinh mạng. Đối với đất khô hạn thì phải tưới bằng cách dẫn
thủy, tát nước. Đối với đất úng lụt thì phải khơi bằng cách đào ngòi tháo nước,
thì đối với người việc dạy dỗ uốn nắn tình cảm cũng có ý nghĩa như công tác trị
thủy, tưới bón hay tiêu tháo kể trên. Tình được uốn nắn bằng lễ nghĩa là những
hình thức được coi là tiêu chuẩn áp dụng cho từng trường hợp, tùy người, tùy
cảnh. Vì vậy, Tình thường được Nghĩa đi theo để điều hòa ở mức vừa phải, không
thái quá mà cũng không bất cập. Chữ Nghĩa (義 )
có nghĩa là điều phải, việc đúng nên làm. Chữ Nghĩa gồm chữ Dương (恙 ) là
con dê, tượng trưng cho quyền lợi vật chất và chữ Ngã (我)
là cái Ta chung của mọi người, tức là quyền lợi chung phù hợp cho mọi người
theo đúng tinh thần đại đồng “kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Điều mình không muốn
thì cũng đừng làm cho người.
2c).
Tâm Lý
Tình cảm được coi như một nguồn năng lực chủ yếu của con
người, nhưng vấn đề là xử dụng nguồn năng lực đó làm sao cho hợp lý và tốt đẹp.
Người không thể sống như tĩnh vật vô tình, như gỗ đá vô tri. Cho nên tình không
thể diệt mà phải chính, không thể lạnh lùng nhổ bỏ như loài cỏ dại mà phải xuất
lực ra tưới bón như lúa, như ngô, kiên tâm uốn nắn như cây kiểng. Tình phải
nuôi mới lớn, nuôi bằng những cảm xúc cao đẹp, mà gây cảm xúc thì không gì bằng
đọc lịch sử, văn chương, thi phú. Vì vậy mới nói “khởi ư thi” bắt đầu bằng thơ
văn. Nhưng phát triển thì phải định hướng quy về một chủ đích, không thể để tự
do buông thả như ngựa không cương, như thuyền không lái mà phải khuôn phép theo
lễ nghĩa. Vì vậy mới nói “chế ư lễ”, dùng lễ nghĩa để uốn nắn. Một khi tình đã
nuôi cho mạnh, uốn cho ngay chính đó là lúc tình có thể đem ra ứng dụng một
cách hợp lý và tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh, vì đã đạt được tới mức độ thuần
thục “phát nhi trúng tiết” như một nốt nhạc góp phần làm nên một hợp âm, như một
khí cụ trong tay người nghệ sĩ tài ba tham dự hòa tấu. Vì vậy mới nói “hòa ư
nhạc” và bản chất của nhạc là “hòa nhi bất đồng”, âm thanh chỉ tương ứng mà hòa
hợp với nhau, chứ không tan lẫn vào nhau như màu sắc.
Nói thì giản dị nhưng chuyện không
phải dễ làm. Vì đó là một tiến trình Tự Thắng để làm người, phát huy trọn vẹn
Nhân Tính, “tận kỳ tính”, để đạt tới mức Nhân Chủ, làm chủ mình, làm chủ xã
hội, làm chủ thiên nhiên. Nhân Chủ
là một lý tưởng cao đẹp, làm chủ mình mà thảnh thơi như Tiên, Phật, làm chủ xã
hội mà không áp chế bóc lột đồng loại, làm chủ thiên nhiên mà biết lấy chổ dư
bù chổ thiếu để của kho thành vô tận. Hòa được với mọi người với vũ trụ mà
không mất bản sắc, kết hợp được cả hai yếu tố mâu thuẫn nhau là Sống và Chết
bằng Thủ Đoạn Nhân Ái, qua phong cách sống nội Thánh ngoại Vương để an định
không chỉ một xã hội một quốc gia, một thế giới mà là cả vũ trụ trong tình
trạng Duy Nhiên Thái Hòa. Lý Tưởng Nhân
Chủ này được gói ghém trong biểu tượng Tiên
Rồng, mà tổ tiên ta đã để lại như một bí quyết để giữ nước nòi cho con cháu
trong nhiệm vụ Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa
đến vô cùng.
3). Đạo Hiếu: Nền Tảng Sâu Xa Của Duy Nhân
Cương Thường
3a).
Đạo Là Gì ?
Đạo là một thứ hệ thống tư tưởng bao
gồm nhiều ý niệm, dùng để hướng dẫn con người sống một cách tốt đẹp phù hợp với
những tiêu chuẩn lý tưởng. Nhưng Đạo cũng có nghĩa là con đường phải theo để
đạt đến một đích điểm nào đó. Theo chiết tự, Đạo (導)
gồm bộ Xước (逴) là
chân bước đi thong thả và chữ Thủ (取)
là cái đầu. Đầu để trầm tư suy nghĩ những ý niệm trừu tượng, phân biệt phải
trái, đúng sai. Nhưng ý thức được trọn vẹn sự việc, mà không quyết tâm thi
hành, thì đó chỉ là hạng thanh đàm bạc nhược. Người xưa có câu “kiến nghĩa bất
vi vô dũng giả” nghĩa là thấy việc đúng phải, nên làm, mà không làm là kẻ hèn
mọn. Nhưng tri hành phải hợp nhất, biết thì phải đi đôi với làm. Kẻ cầu đạo khi
được học đạo tất phải hành đạo để đắc đạo. Học đạo, sống đạo, thực hành đạo đều
là những hành động có ý thức đòi hỏi sự kiên tâm quyết chí, thúc đẩy bằng một
niềm tin mãnh liệt. Đạo không sống thì đạo không thành, đường đi không tới. Do
đó chữ Đạo bao gồm chữ Thủ chỉ sự biết và bộ Xước chỉ sự làm trong một toàn thể
gọi là Đạo.
3b). Nhận Định Căn Bản
Đạo Hiếu bắt đầu bằng một nhận định
căn bản “Nhân bản hồ tổ”, người gốc ở tổ tiên. Sự liên hệ nguồn gốc này mang đủ
hai đặc tính huyết thống và tinh thần, được di truyền từ đời tổ tiên xuống đến
con cháu, nối những thế hệ thành một xâu chuỗi, thành một sinh mệnh có tính bất
tử, vì thống nhất được cả quá khứ, hiện tại và tương lai vào một giòng sống
miên man và bất tuyệt. Ý niệm sinh mệnh nói trên được chứng thực qua cách nói
ví với những bộ phận bất khả phân ly của một con người đang sống. chẳng hạn đã
có những câu phương ngôn như:
*
- Cốt nhục thâm tình.
*
- Anh em như thể tay chân.
*
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
*
- Máu chảy ruột mềm.
*
- Môi hở răng lạnh.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã
trở thành một niềm tin làm cơ sở siêu hình cho Đạo Hiếu. Trong ngôn ngữ Việt đã
có những câu như:
*
- Phúc đức ông bà để lại.
*
- Phúc đức tại mẫu.
*
- Sống gởi thác về.
*
- Tu nhân tích đức để phúc cho con.
*
- Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
*
- Sống vì mồ vì mả, không ai sống vì cả bát cơm.
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã
được chấp nhận trong đời sống quốc gia, được thể hiện qua định chế lập pháp.
Tội tru di tam tộc (giết ba họ), hay khi thi đỗ đại khoa được cấp ngựa xe võng
lọng để vinh quy bái tổ, trở về quê quán để làm lễ tuyên cáo với tổ tiên về
thành quả đã đạt được trong việc học hành. Cha mẹ, vợ con của những người đỗ
đạt làm quan tước đều được phong hàm. Do đó mà có câu “một người làm quan cả họ
được nhờ”, nhờ vì được tiếng thơm lây cho cả giòng họ .
Ý niệm sinh mệnh nói trên cũng đã
đưa đến một thói quen được thấy trong đời sống hàng ngày và đồng hóa cá nhân
với cả giòng họ, coi người được tiếp xúc như là đại diện chính thức của giòng
họ, chẳng hạn như Lão Trần, Chu Tiên Sinh, Trần Thi, Nhan Thị, v.v... Do đó, một
người có thể lưu danh thơm thiên cổ làm rạng rỡ tổ tiên giòng họ, hay di xú, để
tiếng xấu đến muôn đời làm điếm nhục tông môn bằng những hành động có tính cách
cá nhân. Ca dao có câu:
*
- Yêu người yêu cả đường đi
*
- Ghét người ghét cả tông chi họ hàng
3c). Những Ý Niệm Tạo Dựng Nên Chữ Hiếu.
Hiếu ( ) là con đường thờ cha mẹ hết lòng. Thờ là
đối xử một cách cung kính lúc cha mẹ còn trên đời cũng như lúc cha mẹ khuất núi.
Phân tích theo chiết tự thì Hiếu ( ) là
đất ở trên và chữ Tử ( ) là con ở dưới.
Chữ Thổ và chữ Tử được phân biệt tách bạch bằng nét phẩy ( ) thuộc bộ Phiệt. Dấu phẩy này tượng trưng
cho cương giới, phân định vị trí người con đối với cha mẹ và các bậc tôn trưởng.
Vì vậy mà chữ Tử đứng ở dưới chữ Thổ chỉ phận ở dưới.
Sách có câu “Tại thiên thành tượng,
tại địa thành hình”, ở trên trời là biểu tượng, ở dưới đất là hình thể, đó là ý
nhờ mẹ nên mới có con. Thổ, tức là địa phối hợp với thiên để tượng trưng cho ý
niệm Âm Dương đầu mối của muôn vật với ý nghĩa “Nhất âm, nhất dương chi đạo”,
mà cái đức lớn nhất của trời đất là sinh hóa “Thiên địa chi đại đức viết sinh”,
và cái công lao cha mẹ cũng nằm trong việc sinh đẻ con cái, nuôi dưỡng chúng
nên người.
Theo kinh Dịch, Thổ là đất địa,
tương ứng với quẻ Khôn ( ) Khôn chỉ yếu
tố Âm, người mẹ, sự chứa đựng bao dung, lòng nhân ái … đối lập với quẻ (Kiền)
Càn ( ) chỉ yếu tố Dương, người cha, sự
cứng rắn … Con là kết quả của tinh cha huyết mẹ. Sự thụ nhân và cưu mang mầm
sống, là khả năng thuộc bản chất người nữ với tấm lòng bao dung nhu thuận, vì
đó mà quẻ Khôn được tượng trưng bằng một khoảng trống vắng ở giữa, hai hàng
vạch nằm chồng liên tiếp lên nhau. Trong vòng chín tháng mười ngày thai nhi với
mẹ chỉ là Một. Đến kỳ mãn nguyệt
khai hoa, khi thai nhi cất tiếng khóc chào đời và được cắt rốn giữa cơn đau xé
ruột của người mẹ, thì Một đã trở
thành Hai. Mẹ và Con với sự chia
cách của hai thân xác, nhưng lại được ràng buộc chặt chẽ bằng mối tương quan
nhân tính bền vững của tình mẫu tử và những nghi thức, bổn phận do chữ Hiếu qui
định.
Theo triết lý ngũ hành, Thổ có vị
trí đứng giữa thuộc Trung cung, mang số năm (5), mầu vàng. Thổ đứng ở giữa vì
thổ có đức bao dung chứa đựng. Tục ngữ có câu: “Bậc trưởng thượng lòng phải
rộng, tính phải thẳng-quân tử tiết trực tâm hư”, vì vậy mà Thổ tượng trưng cho
Mẹ mà cũng tượng trưng cho Vua mặc hoàng bào, ở trung ương. Đó là lý do người
chết thường chôn theo địa táng chứ không thả trôi sông, trôi biển theo thủy
táng hay treo cao bỏ mặc kiểu thiên táng. Câu “sống gởi thác về” được hiểu là
nhập thổ về với tổ tiên. Ý niệm ngũ hành còn là đầu mối của nhiều nghi thức.
chẳng hạn chữ Tỉnh (井 ) là đào giếng
để lấy nước ăn, uống, là dấu vết để lại của thời bình sản kinh tế qua các hình
thức phân quân điền địa. Đất phân làm chín (9) khu, chia cho tám (8) nhà cầy
cấy, còn thửa ruộng ở giữa có giếng để dùng chung. Lúa thu hoạch được ở ruộng
giữa này do sức đóng góp của tám nhà chung quanh sẽ thay cho thuế nộp vào kho
vua. Do đó đại gia đình chỉ giới hạn trong chín đời, gọi là cửu tộc, lấy mình
làm gốc ở giữa kể lên bốn (4) đời gồm cha mẹ, ông bà, cụ, kị, và dưới mình bốn
(4) đời gồm con, cháu, chắt, chút. Trong từ đường của giòng họ ngành trưởng thì
thần chủ thờ vị thủy tổ không bao giờ thay đổi gọi là “Bách thế bất điêu chi
chủ”, nhưng trong những nhà thờ ngành thứ nhì, thì có lệ chôn thần chủ khi vượt
quá năm (5) đời. Ví dụ nếu người cha chết, người con lên thay thì người cha sẽ
được thờ, thần chủ của kị người cha sẽ được đem chôn và thay vào đó là thần chủ
của cụ người cha nay là kị của người con.
Việc thờ cha kính mẹ phải xuất phát
tự đáy lòng, đột khởi tự con tim và được hướng dẫn bởi trí óc. Nghĩa là việc
hiếu thảo phải được thúc đẩy bởi năng lực tình yêu qua những biểu lộ hình thức
gọi là Lễ. Cốt tủy của Lễ là ở chỗ thành tâm, tức là sự thực lòng được thể hiện
qua thái độ cung kính bên ngoài. Không có sự chân thật thì Lễ chỉ là hư văn,
hình thức giả dối. Chữ Thành (成 )
ngoài ý là chân thành không giả dối, đổi thay còn có nghĩa là làm nên công,
xong việc, hoàn tất một cách tốt đẹp như chữ Thành Công, Thành Nhân. Chữ Thành
được ghép bởi chữ lực (力) là
sức mạnh và bộ Qua (戈) là
một thứ binh khí thời cổ để diễn tả sự muốn thành công hay thành nhân không
phải là chuyện dễ làm. Để Thành Công hay Thành Nhân tất phải dùng tới cả sức
mạnh của ý chí tinh thần lẫn thể xác và vũ khí vật chất để thắng kỷ và thắng
nhân, bắt mình vào khuôn phép hay khuất phục người. Thắng người còn dễ nhưng
chiến thắng chính bản thân mình là một điều thật khó. Đó cũng là lý do nói. Đạo
Hiếu là đạo để tu thân, khởi điểm của tiến trình đi đến Nhân Chủ qua những cấp
bậc liên tiếp là: thương gia đình, lo cho tổ quốc, trăm họ bình yên và hài hòa
cùng vũ trụ. Đó cũng là lý do nói Thành là khởi điểm tu thân cầu học trong nền
Đạo Hiếu của 99 giòng Việt với những giai đoạn: “Thành ý, Chính tâm, cách vật, chí tri, thành nhân chi mỹ”. Nghĩa
là ý muốn phải mãnh liệt và chuyên nhất, không thay đổi, lòng dạ phải ngay lành
không khuất tất gian tà, làm việc phải phân minh rõ ràng đến nơi đến chốn, hiểu
biết phải sâu xa đến ngành đến ngọn. Có thành tâm thì mới hy vọng có thành công
được vậy ! và Tu để làm gì nếu không là để thành người tốt, đó là ý nghĩa của
câu “thành nhân chi mỹ”. (Sau này Khổng Khâu tức Khổng Tử đã lấy năm (5) ý trên
mà sửa lại để bình trị (làm vua) thiên hạ là: “Thành kỳ ý, Chính kỳ tâm, Tu
Thân, Tề Gia, Trị Quốc Bình Thiên Hạ”)
Đạo Hiếu là đạo tu thân, sống Làm
Người và để Thành Người trong xã hội, nên trên từ vua, quan đến thứ dân đều
theo đạo Hiếu. Chữ Hiếu ( ) khi được
ứng dụng vào tầm vóc quốc gia thì chữ Tử (
) ngoài ý nghĩa là con thông thường còn để chỉ những người tôn quý, có
đức hạnh, có học vấn, có chức vụ cao, chẳng hạn như đại thần Chu Văn An hay vua
(thiên tử) và chữ Thổ ( ) chỉ công
trình kiến trúc được đắp bằng đất cao và vuông vắn để làm nơi tế lễ. Vua, trong
cương vị là thiên tử đứng dưới để làm lễ tế trời đất.
Nếu hiểu sống Làm Người để Thành
Người đạt tới lý tưởng Nhân Chủ thì trăm năm của kiếp nhân sinh phù du có lẽ
quá ngắn ! Thích Ca đã phải luân hồi bao nhiêu kiếp để thành chính quả ? Nhưng
bổn phận là điều mà không ai có thể chối từ. Sự khác biệt của các vị Tiên-Phật
với chúng ta là: Họ đã có một quá khứ, còn chúng ta có một tương lai. Tương lai
thì có biết bao điều hứa hẹn, cho nên chữ Liễu ( ) là sự hiểu biết, sự hoàn tất, làm xong
công, xong việc đã bị làm cho dở dang, ngăn cách bởi một vạch ngang ( ) chữ Nhất. Ý nhắc nhở là ở vị trí người con
( ) ta còn biết bao việc phải hoàn tất.
Thật vậy sống làm người đến khi nhắm mắt xuôi tay có mấy ai dám nghĩ mình phải
thảnh thơi trả xong ơn nghĩa, ơn tổ tiên, ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, làm xong bổn
phận với gia đình thân thích, đối với đồng bào ruột thịt và đối với tổ quốc
thân thương yêu quý.
3d). Đạo Hiếu
Từ sự nhận định “Nhân Bản Hồ Tổ”, đến
việc ý thức toàn thể giòng họ như một sinh mệnh không thể chia lìa, đã đặt các
phần tử trong một gia tộc trước những bổn phận phải hoàn tất để thực thể đó
được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng. Sống làm người không ai không mong
được đủ năm điều: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, nghĩa là sang, giàu, sống lâu,
mạnh khỏe, bình an. Nhưng làm sao để sống, để còn là điều quan trọng hàng đầu,
Chết, mất vẫn là điều tệ hại nhất. Hiểu được vậy tất thông cảm nổi lo âu của
các bậc tôn trưởng khi thấy mình tuổi đã cao, cái chết đã cận kề mà chưa thấy
có kẻ nối dõi, vì e sợ giòng họ do sự thua kém của mình và tuyệt tự. Việc bái
lễ cầu con, lấy vợ lẽ cho chồng, nuôi nghĩa tử ... chỉ là những cố gắng đớn đau
tuyệt vọng của những người mang mặc cảm chưa làm xong trách nhiệm với giòng họ
“bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” không con để cho giòng dõi bị tuyệt diệt là
một tội nặng. Tuy nhiên, việc làm cho giòng họ được trường tồn, chỉ là bước đầu.
Những phần tử có trách nhiệm còn phải cố gắng làm sao để làm cho rạng danh
giòng họ. Con phải hơn cha, cháu phải hơn ông, con cháu hưng vượng, thì đó mới
thật sự là nhà có phúc. Vì đó là sự tiến lên của một gia đình, giòng họ và đất
nước.
Đạo Hiếu là đạo thờ người vì (và)
truy nhận nguồn gốc tổ tiên. Tổ tiên tuy không là đấng toàn năng tạo ra muôn
loài, muôn vật, có toàn quyền ban phát phúc họa với sự thưởng phạt thiên đường,
địa ngục, với cõi niết bàn, với ngục thất a tì, nhưng tổ tiên đã để lại gương
tốt oai linh làm anh thư liệt nữ, hào kiệt anh hùng, với những công trạng hiển
hách muôn đời ghi lại trong gia phả, trong sử sách để con cháu đời sau học
theo, làm theo. Những lúc hành lễ cúng thờ tổ tiên, những lúc xem lại gia phả,
đọc lại sử nước nhà, trong cái tịch mịch của sự suy tưởng bằng một tấm lòng
thành kính, tất sẽ thấy được hình bóng phảng phất của hồn thiêng tổ phụ qua
hương bay khói tỏa trở về chứng giám, sẽ cảm được từ đáy sâu của tiềm thức thế
nào là vinh quang và tủi nhục của một giòng họ, của một nước nòi đã trải qua
trong cuộc đấu tranh gay gắt để: Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa.
Do đó, Đạo Hiếu là đạo tu thân để làm người con xứng đáng, nhưng cũng là đạo tu
thân để làm người công dân tốt trong một đất nước trong một xã hội. Có yêu nhà
thì mới yêu nước. Có giữ được nước thì mới giữ được nhà. Câu “quốc phá gia
vong” là một quy luật biện chứng lịch sử mà tổ tiên ta đã từng đưa ra để giáo
dục con dân:
“Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn
thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập
cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông, Hậu Nghệ thì mới
có thể dẹp tan được giặc mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của
ta được bền vững, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc. Chẳng những gia
quyến của ta được yên ổn, mà các người cũng được vui với vợ con, chẳng những
tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được thờ phụng tổ phụ trăm năm
vinh hiển, chẳng những một mình ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu
truyền sử sách, nghìn đời thơm tho. Đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ,
cũng tự khắc được vui vẻ ...” (Hịch Tướng
Sĩ Hưng Đạo Vương).
Đạo Hiếu thâm trầm giản dị là thế,
gần gủi và thiết thực đối với chúng ta trong tư cách con dân là thế, có thể coi
là trong gang tấc mà sao vẫn bị ngộ nhận như một kẻ xa lạ vô cùng ! Đã có biết
bao người khi mở miệng, hễ đặt bút là chê tổ tiên, khinh khi giòng giống. Theo
họ, đạo xưa là hẹp hòi, hủ lậu, là bất công, áp chế con người ..v.v.. Nhưng họ
có hiểu rõ bản chất của Đạo Hiếu và dụng ý của người xưa chăng ? Một ngàn năm
(1000) bị giặc phương Bắc đô hộ mà không bị đồng hóa. Tám mươi năm (80) giặc Pháp
xâm thực, mà không bao giờ ngớt đổ máu xương tranh giành độc lập. Những kết quả
đó tất phải tạo được bởi một Nhân. Và nhân nào nếu không là những người con
hiếu thảo, những người vợ đảm ngoan, những người mẹ hiền thục ? Hiếu tử luôn
luôn sẽ trở thành trung thần, nghĩa sĩ, bạn hiền. Những phường bạc tình, vong
ân, bội nghĩa, khinh khi cha mẹ, coi thường nòi giống. Cuối cùng rồi cũng đi
làm tay sai cho người, bán nước cho ngoại bang. Vì họ đều có chung một bản chất
ích kỷ, tham lam, ti tiện, những loại người này họ sống hay chết thì cũng thối
tha, vô tích sự cho xã hội và cho đất nước.
4). Những Cống Hiến Vĩ Đại Của Người Phụ Nữ
Việt Cho Nước-Nhà
Nguyện vọng sâu xa nhất của loài
người là sống còn mãi mãi. Những phương pháp tu luyện, những linh đơn, tiên
dược có khả năng trường sinh hoặc kéo dài tuổi thọ mà ngày nay ta còn được nghe
tới, chỉ là những dấu tích của một ước mơ chưa trọn vẹn. Dù chưa tìm được phép Trường
Sinh, nhưng loài người lại có khả năng Truyền Sinh để tiếp nối sự sống đến vô
cùng. Tuy nhiên, khả năng truyền sinh lại có thể hoàn tất một cách tốt đẹp qua
sự thuận tình hợp tác của hai yếu tố nam và nữ, qua tương quan vợ chồng, trên
căn bản bình đẳng. Vì con cái phải là kết quả của tình nghĩa, của lòng yêu thương
và tinh thần trách nhiệm được biểu lộ bằng một mong ước thật tình và một sự chờ
đợi nôn nóng ...
Nhiều người theo tây học đã cho rằng
phụ nữ Việt Nam bị kỳ thị coi rẽ, coi khinh và mất nhân cách vì họ bị lệ thuộc
hoàn toàn vào cha mẹ ở nhà, vào chồng khi xuất giá vào con khi chồng chết … Do
đó, họ đã hô hào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền, rập theo khuôn mẫu
của những phong trào tương tự ở Âu Mỹ. Phải nhìn nhận là thiện chí của họ rất
tốt, thái độ của họ rất đúng, nhưng đối tượng của họ sai. Bên Âu Châu, phong
trào giải phóng phụ nữ và đòi nam nữ bình quyền bắt nguồn sâu xa từ một ý niệm
triết lý căn bản: “…đàn bà là vật phụ thuộc của đàn ông”, qua chuyện tích bà
Eva được làm nên bởi cái xương sườn của Adam. Thượng đế đã tạo nên Eva trong
mục đích làm cho Adam vui sống. Eva với bản tính nhẹ dạ cả tin và ưa phù phiếm
nên đã bị rắn Satan cám dỗ ăn trái cấm. Sau khi phạm tội, Eva đã quyến rũ Adam
phạm tội theo và cả hai bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Vả lại, ý niệm tự do Tây
phương đặt trên quyền lợi cá nhân. Quyền lợi đưa tới tư hữu. Tư hữu đưa tới chiếm đoạt mà chính sách đế
quốc thực dân là một hậu quả tất nhiên. Ngược lại, ý niệm tự do Đông phương
xây dựng trên bổn phận. Bổn phận đưa đến trách nhiệm. Trách nhiệm đưa đến hy
sinh quên mình mà sự tu thân tự tỉnh là đều kiện chủ yếu. Do đó, thiện chí “giải
phóng phụ nữ” đã không đặt đúng chỗ, vì trên cả hai phương diện lý thuyết và
thực tế người đàn bà Việt Nam đã, đang và mãi mãi được quý trọng không những
bởi con cái, bởi chồng mà còn bởi cả toàn thể dân tộc. Họ được tôn xưng và giữ
một địa vị không thể thay thế được trong triết lý Âm Dương, trong nguồn gốc dân
tộc, trong việc trồng người gồm cả hai mặt sinh dưỡng và giáo hóa, để bảo tồn
giòng sinh mệnh lịch sử của nước nòi được Sống-Còn-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa
đến vô cùng.
4a).
Vị Trí Người Phụ Nữ Trên Căn Bản Triết Lý Dịch
Dịch là những ý niệm triết lý lâu
đời nhất của nhân loại, được hệ thống lại từ khi nhân loại chưa có chữ viết.
Dịch xây dựng trên ý niệm Âm-Dương. Âm biểu tượng bằng một vạch đứt đoạn (--), và
Dương biểu tượng bằng một vạch liên tục (-). Định lý căn bản của dịch là: “nhất
âm nhất dương chi vị đạo”, một âm phối hợp với một dương đó là đạo lớn. Hệ luận
của “độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng”, riêng một mình yếu tố dương thì
không thể sinh trưởng được, riêng một mình yết tố âm thì cũng không thể nào lớn
lên được. Và “âm trung chi dương, dương trung cho âm”, trong âm có dương, trong
dương có âm.
Biểu tượng của dịch được vẽ bằng một
vòng tròn tượng trưng cho sự viên mãn tròn đầy của lý tưởng, sự duy nhất chỉ có
một chân lý mang tính phổ quát bao trùm cả mọi nơi chốn, ảnh hưởng suốt khắp
mọi thời. Bên trong vòng tròn là hai yếu tố Âm Dương được phân biệt bằng một
mầu trắng âm và mầu đen dương, với một chữ S cân xứng làm bằng hai nửa vòng tròn nối tiếp nhau, diễn tả ý “âm
dương tương thôi” yếu tố âm và yếu tố dương đun đẩy và bù đắp lẫn cho nhau, tạo
nên một thế Thăng Bằng Động của một sự Bình Đẳng Tuyệt Đối trên giá trị bản
chất, nhưng khác biệt nhau vì hoàn cảnh: Vị trí và nhiệm vụ. Sự khác biệt vị
trí và nhiệm vụ nói lên tính hợp lý trong việc phân công. Yếu tố dương có một
đầu to và một đầu nhỏ, yếu tố âm cũng có một đầu nhỏ và một đầu to. Nếu đầu to
tượng trưng cho ưu điểm và đầu nhỏ tượng trưng cho nhược điểm thì với sự phối
trí của biểu tượng dịch lý, yếu tố âm và yếu tố dương đã hoàn toàn bổ túc, bù
đắp cho nhau để tạo thành một toàn thể có đủ những tính chất: hợp lý, cân xứng,
hài hòa. Còn hai điểm nhỏ, điểm đen nằm ở đầu to yếu tố âm trắng và điểm trắng nằm
ở yếu tố dương đen, tượng trưng cho mầm nhân của khả năng biến đổi tiến hóa để
thích nghi với hoàn cảnh, phù hợp với nhiệm vụ mới, diễn tả hệ luận biến dịch
“Âm trung tri Dương, Dương trung tri Âm”, căn bản của quy luật chân lý tương
đối trong môi trường động.
Đặt nền trên những căn bản triết lý
trên, người phụ nữ đã có một địa vị xứng đáng và cao trọng trong xã hội Việt Nam đặc biệt là
trên tương quan vợ chồng. Vợ chồng là đạo lớn “phu thê chi đại đạo” hay của
người quân tử bắt đầu từ mối liên hệ vợ chồng “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu
phụ”, chỉ là những diễn dịch từ định đề căn bản của dịch “nhất âm nhất dương
chi vị đạo” là mối cương thường đứng hàng đầu trước mối liên hệ cha mẹ-con cái và
vua tôi, tạo nên ba giềng mối lớn gọi là Tam Cương. Lấy vợ, sinh con nối dõi
vừa là một nhu cầu thuộc bản năng, vừa là một nhiệm vụ trong việc làm người để
thành người. Do đó, đời một người được chia làm ba thời kỳ với ba mục tiêu rõ
rệt. Tuổi vị thành niên thì lo học hành “Định Học”. Tuổi trưởng thành thì lo
lập gia đình “Định Tình”. Sau khi đã yên bề gia thất, vợ con mới lo công danh
sự nghiệp “Định Nghiệp”. Việc lấy vợ còn quan trọng hơn việc thi đỗ. Vì vậy, thi đỗ được coi là tiểu đăng khoa, còn
lấy vợ là đại đăng khoa.
Khi vợ chồng ăn ở với nhau đã có con
cái, người vợ nay thêm bổn phận làm mẹ lại càng được tôn kính nhiều hơn. Chỉ
nhìn qua lễ nghi, tang ma thì đủ rõ mục đích biểu lộ lòng nhớ ơn sâu xa của
người con đối với công lao sinh dưỡng của người mẹ. Nào mũ mấn đội đầu tượng
trưng cho cái “nhau” lúc ra đời, nào áo sô trắng tượng trưng cho lúc còn nằm
trong bụng mẹ. Nào để tang ba năm, khoảng thời gian tối thiểu để đứa bé có thể
sống xa mẹ ...
Kể ra khi nhìn vào thực tế xã
hội tất cũng nhìn thấy nhiều sự sai lạc
và biến đổi không thập phần hoàn hảo như những ước tính hoạch định trên lý
thuyết. Tuy nhiên, đó chỉ là những khuyết điểm về phần nhân sự thực hành mà
những người có trách nhiệm cải tạo xã hội phải sửa sai. giáo dục chứ không đập
bỏ, phá vỡ một cách vô trách nhiệm. Thái độ phê bình “vơ đũa cả nắm” chỉ chứng
tỏ một trình độ hiểu biết nông cạn và phiến diện về đối tượng được phê bình,
nếu không muốn nói đó là thái độ thù nghịch. Không thể lấy con đường 14th
ở Washington D.C. để đại diện cho cả thủ đô Hoa Kỳ hay
nguy hại hơn nửa cho cả nước Hoa Kỳ rộng lớn. Cũng không thể đọc vài tờ báo như:
Penthouse, Playboy, Sirs ... để định mức tình trạng trí thức Hoa Kỳ !
Nếu tin vào sự chính xác của quy
luật “tư tưởng hướng dẫn hành động”, thì chỉ ý niệm Âm Dương trong vòng Thái
Dịch cũng đủ minh chứng sự “Bình Đẳng Tuyệt Đối” của vợ với chồng trên giá trị
bản chất người, Nhân Bản. Và để kết luận, người phụ nữ có một địa vị cao trọng được
tôn kính đúng mức ở xã hội Việt Nam, với những chứng tích không thể chối bỏ
được trong lịch sử dân tộc.
4b). Vị Trí Người Phụ Nữ Trong Giòng Sinh
Mệnh Dân Tộc
Lịch sử Việt là cuốn gia phả của dân
tộc Việt cũng đã truy nhận nguồn gốc của nòi giống và xưng tôn mẹ Âu Cơ như Tổ
Mẫu. Mở đầu cuốn gia phả là một truyện tích chép rằng: “...Kinh Dương Vương làm
vua nước Xích quỷ vào năm 2879 trước Tây Lịch , lấy con gái Động Đình Quân là
Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long
Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ đẻ ra trăm người con, gốc của trăm giòng Việt.
Sau Âu Cơ mang năm mươi con lên núi, Long Quân mang năm mươi con xuống bể ...”
Núi và Biển là những vùng đất và vùng biển được Âu Cơ và Long Quân chiếm lĩnh
trong việc mở mang bờ cõi coi như không gian sinh tồn của một dân tộc, được gói
gọn ý nghĩa trong chữ kép: Giang Sơn, Non Sông, Đất Nước. Âu Cơ cũng đã hoàn
tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp so với chồng trong việc mang năm mươi con đi mở
mang bờ cõi, dựng nước, giữ nòi. Đó không phải là một sự bình đẳng trước nghĩa
vụ hay sao ?!
Gia phả lại chép “... Năm Giáp Ngọ
(34 tây lịch), tức năm Kiến Võ thứ mười, vua Quang Võ nhà Hán sai Tô Định làm
Thái Thú Quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược làm lắm điều tàn ác, khiến
lòng dân oán giận. Năm Canh Tí (40 tây lịch), Tô Định giết Thi Sách. Vợ Thi
Sách là Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định. Tô Định
phải trốn về Nam Hải. Hai Bà hạ được 65 thành trì, giành lại độc lập rồi tự
xưng là vua, đóng đô ở Mê Linh”.
Đọc sử tất phải xét sử để phân định
đúng sai, biện biệt lẽ nên, không. Vì chồng mà trả thù không phải là tình hay
sao ? Vì muôn dân mà diệt bạo không phải là đại nghĩa hay sao ? Nhưng tình
nghĩa đều là những điều căn bản của bổn phận làm người được quy định bởi Duy
Nhân Cương Thường, mà không hoàn tất , tất không thể thành người. Đó cũng không
phải là sự bình đẳng không phân biệt trai gái trước nghĩa vụ hay sao ?!
Sử gia Lê Văn Hưu đời nhà Trần khi
viết về sự nghiệp của hai Bà có bình luận như sau: “Trưng Trắc và Trưng Nhị là
đàn bà nổi lên đánh đuổi Tô Định lấy lại được 65 thành trì, lập quốc xưng vương
dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một
nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu mà không biết
xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng?” câu văn kể trên không hề mang ý nghĩa kỳ
thị coi rẽ, coi khinh đàn bà như nhiều người ngộ nhận, mà ngược lại là một câu
văn khích động, mang tính chất “văn dĩ tải đạo”, văn chương được dùng để truyền
bá đạo lý. Do đó, xấu hổ không vì “người mình” gồm toàn đàn ông sức dài vai
rộng, mà vì, “người mình” đã không hoàn tất bổn phận làm con dân đúng nghĩa đối
với nước nhà khi bị ngoại bang đô hộ, vì “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã”, nghĩa
là thấy việc đại nghĩa mà không dám làm là bọn hèn mọn vậy! Phương ngôn ta có
câu: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để minh chứng quan niệm bình đẳng trong
nghĩa vụ sống làm người để thành người trong cương vị làm con, làm dân đối với
nước, với nhà. Ơn tổ quốc, ơn cha mẹ là những nghĩa vụ mà đã sống làm người,
không phân biệt trai gái, già trẻ không ai mà không phải hoàn tất một cách
thành tâm kính cẩn.
Gia phả lại chép: “…Năm
Mậu Thìn (248 tây lịch) năm Xích Ô thứ 11 của nhà Đông Ngô, Ngô Chủ sai Lục Dận
sang làm thứ sử Giao Châu. Năm ấy ở quận Cửu Chân có người đàn bà tên Triệu Thị
Trinh khởi binh giúp anh là Triệu Quốc Đạt đánh nhà Ngô. Quân lính của người
anh thấy Bà làm tướng có đủ mọi điều kiện hơn người như: chí khí, sức mạnh và
mưu lược bèn tôn bà lên làm minh chủ. Khi Bà ra trận thường cỡi voi mặc áo giáp
vàng xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân. Lục Dận đem quân đánh dẹp, Bà chống cự được
năm sáu tháng. Sau vì quân ít thế cô nên bị thua, Bà chạy đến xã Bồ Điền thì tự
tử. Bấy giờ Bà mới có 23 tuổi”.
Vua Lý Nam Đế (nhà tiền Lý) khen là người
trung dũng cho lập miếu thờ, phong Bà là “Bật
Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân”. Hậu thế khi đọc lại tiểu sử
của Bà không khỏi thầm cảm phục chí khí cang cường của một người quyết tâm chọn
con đường cách mạng giải phóng đất nước. Câu nói bất hủ của Bà :“Tôi muốn cưỡi
cơn gió mạnh giải đạp đầu sóng dữ, chém cá Tràng Kình ở bể Đông, quét sạch quân
Ngô ra khỏi bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, lầm than, chứ không thèm
bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta”.
Nhân tính vẫn thường yêu sống ghét
chết, thích an ổn nhàn rỗi, sợ khó khăn gian khổ, chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ trước
mắt mà không thấy cái hại lớn sau lưng. Vì vậy, mà trong nội tâm con người luôn
luôn có một sự dằn co giữa tình và nghĩa, giữa nước và nhà, giữa cái riêng và
cái chung. Vợ đẹp, con khôn, nhà cao cửa rộng dễ gì ai dám bỏ !
*
- Chàng từ biệt vợ con thơ dại
*
- Lên đường ra quan ải xa xăm
*
- Bước đi quay ngắm lại nhà
*
- Bên tình bên nghĩa đâu là nặng hơn ?!
Do đó, sống làm người để thành người
là chuyện khó. trốn tránh nghĩa vụ là điều thường thấy trong xã hội. Có vậy mới
càng khâm phục chí lớn gan liền của Nhụy Kiều Tướng Quân trong sự lựa chọn lấy
nước làm nhà, trong thái độ quyết tâm và dám chết vì đại nghĩa. Chết không phải
là hết! Voi chết để Ngà, Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Sát thân thành
nhân, còn Bà chết thì thành Thần được tổ quốc ghi công, dân tộc muôn đời chiêm
ngưỡng và hậu thế muôn đời tưởng nhớ với khói hương thành kính. Mười chữ vua Lý
Nam
Đế sắc phong cho Bà: “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân” đã biểu
lộ sự kính phục vô cùng của một tâm hồn đồng điệu, cùng chung chí hướng. Tất cả
có thể tóm lược lại là: “Phu nhân là người quyết tâm nêu cao chính nghĩa, dám
làm hơn người và dám chết hơn người”, khen một người sống cho sự trường tồn của
Dân Tộc và chết cho sự vinh quang của tổ quốc đến thế là hết chữ. Người đời theo
lẽ nhi nữ thì chỉ cần theo chồng cũng đủ khen là tiết liệt, còn Bà theo nước,
yêu nước như yêu chồng. Hai chữ Trinh Nhất đó dành cho Bà thật xứng đáng lắm
thay.
Yêu nước là một tiến trình từ tiềm
thức lên ý thức, từ trừu tượng sang cụ thể, từ tư tưởng bước sang hành động. Do
đó, yêu nước không thể chỉ để ngấm ngầm trong lòng, cũng không chỉ phô bày bằng
miệng lưỡi. Yêu nước phải được thể hiện bằng hành động cụ thể bởi vì, chỉ có
lửa mới thử được vàng, lấy gian nan mới thử được sức người và hành động mới tỏ
lộ được mức độ tinh thần. Bản chất của tình yêu là quên mình và tận hiến, là
phục vụ và hy sinh. Do đó, là phải dám hy sinh cho nước. Hy sinh không phải vì
xung động nhất thời như lửa với rơm bung lên rồi tắt ngúm, trái lại phải hy
sinh với một ý thức cao độ của một kẻ tu đạo tận hiến cuộc đời cho lý tưởng, để
nghĩa vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng. Nói đến kẻ thù, thì có kẻ thù nào đáng sợ và nguy hiểm hơn chính cái Ta.
Cái Ta của sự ươn hèn, ỷ lại, của sự cầu an hưởng thụ, của sự phản bội ích kỷ.
Từ xưa đến nay tự thắng mình không phải là chuyện dễ làm và mới thấy cái khó
khăn của sự tự thắng, khi phải cắn chặt răng để chịu thiệt, đứng vững gót để
làm người mới thấy được cái giá trị của sự hy sinh: hy sinh hạnh phúc của đời
mình, Nhưng phải chết đi để không ngừng sống lại với sự vinh quang của tổ quốc.
Gia phả của dân tộc chép: “Vua Nhân
Tông truyền ngôi cho con là Anh Tông còn mình lên làm Thái Thượng Hoàng, sau
lại bỏ đi tu. Năm Tân Sửu (1301) Thượng Hoàng sang Chiêm Thành xem phong cảnh,
có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân
cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có
nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng hai châu Ô và châu Rí để làm sính
lễ, bấy giờ Anh Tông mới quyết định thuận gả. Đến tháng sáu năm Bính Ngọ (1306)
vua cho công chúa về Chiêm Thành. Năm sau (1307), vua Anh Tông thu nhận hai
châu Ô và châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai Đoàn Nhữ Hài vào
kinh lý và đặt quan giám sát”.
Người đời chỉ xét trên khía cạnh cá
nhân để oán hận triều đình và cảm thương cho công chúa Huyền Trân, nên cao dao
đã có câu:
*
- Tiếc thay thân quế giữa rừng
*
- Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
mà lại
không thấy đó là một cuộc hôn nhân có tính cách chính trị, tạo thế ỷ dốc, lập
một liên minh quân sự để giữ an bờ cõi bằng liên hệ tình cảm giữa hai họ xui
gia. Nếu người đời nghĩ rằng trong chiến công vĩ đại hiển hách của dân binh nhà
Trần đã đánh thắng quân Nguyên và sự chiến thắng của toàn dân ta có sự đóng góp
của dân tộc Chiêm Thành (Chiêm Thành không cho quân Nguyên mượn đất, mượn đường
để đánh tập hậu vào sau lưng ta), thì tất cả đã không trách cứ với câu ca dao
trên. Vua Trần Nhân Tông đã quyết định đúng, phù hợp với tình nghĩa đồng minh.
Gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân không chỉ là hành động đãi ngộ đề bù mà còn
là thái độ ngoại giao khôn khéo, tạo thêm tình thắt chặt giữa hai dân tộc
Việt-Chiêm.
Riêng với Huyền Trân Công Chúa, chỉ
kể về giá trị của đồ sính lễ gồm hai châu Ô và châu Rí cũng đủ nói lên công lao
đóng góp, mở nước, xây dựng tổ quốc của bà, Huyền Trân không đóng góp bằng
xương máu chiến sĩ, nhưng Bà đã cống hiến đời mình bằng những giọt nước mắt tài
hoa của một vị công chúa, Bà đã hiến dâng đời mình cho tổ quốc. Trên cương vị
lãnh đạo, Nhân Tông đã vì nước mà hy sinh con mình. Trên cương vị là con dân
Việt, Huyền Trân đã vì nước quên mình.
Vâng ! Đó là những mệnh lệnh của
trách nhiệm và bổn phận, đã là trách nhiệm và bổn phận thì không một ai được
chối từ.
Ngoài những đóng góp vĩ đại cho tổ
quốc như Tổ Mẫu Âu Cơ, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Huyền Trân Công Chúa ... lịch sử
còn biết bao gương hy sinh cho tổ quốc cần phải nói đến, hay đúng ra là hiện
tại trong chúng ta những kẻ hậu sinh, phải nhớ đến những công lao khó nhọc của
tiền nhân và đã có biết bao sự hy sinh đóng góp một cách tân tụy và âm thầm của
biết bao thế hệ phụ nữ Việt cho nhà, cho nước. Không ai có thể phủ nhận công ơn
của người phụ nữ Việt trong lãnh vực gia đình cũng như ngoài xã hội. Gia đình là
nền tảng của xã hội, là thành phần làm nên đoàn thể. Nếu gia đình êm ấm thì xã
hội sẽ an định, nếu gia đình tan nát thì xã hội sẽ biến loạn. Sự liên hệ song
phương có tính quy luật đó đã được bao hàm trong hai chữ: Quốc Gia hay Nước
Nhà.
Trong gia đình, với cương vị làm con,
con gái cũng đã làm tròn bổn phận hiếu thảo như con trai và còn hơn con trai nửa
! Có nhiều người đã dựa vào câu Hán Nho: “Nhất Nam viết hữu, thập nữ viết vô” để
đã phá nền mống gia đình Việt Nam
là kỳ thị phụ nữ. Đó là sự phê phán vội vàng đáng trách, vì trong ngôn ngữ của
Việt Nam
ta không thiếu gì những câu đề cao vai trò người phụ nữ. Chẳng hạn: “Ruộng sâu
trâu nái không bằng con gái đầu lòng” để tỏ hiệu năng giúp đỡ cha mẹ của người
con gái. Tuy nhiên, đối với kinh nghiệm của các bậc mẹ cha thì con nào cũng là
con, không phân biệt trai gái mà chỉ phân biệt ngoan, hư, như trong một câu ca
dao:
* - Trai mà chi,
gái mà chi
* - Con nào có hiếu có nghì thì hơn.
Có hiếu,
có nghĩa bao gồm cả những việc làm cho cha mẹ vui lòng. Ở địa vị cha mẹ, chúng
ta sẽ nghĩ sao khi đang nóng giận với con gái mà được nghe lời khôn ngoan dịu
dàng này:
* - ... Má ơi đừng đánh con đau
* - Để con đi chợ mua cau ăn trầu
...
* - ...
Má ơi đừng mắng con hoài
*
- Để con đi chợ mua xoài má ăn ...
Ngay từ những ngày còn lên chín lên
mười, người con gái đã lớn không hơn con trai và biết giúp đỡ mẹ cha với những
công việc trong nhà, kể cả việc săn sóc các em như một người mẹ nhỏ. Cảnh tượng
“Con chị bồng con em” ru cho em ngủ trong một buổi sáng muộn của một ngày mùa,
là một cảnh điển hình của làng quê Việt Nam vào những ngày đất nước thanh
bình. Trong những gia đình chẳng may người mẹ đau ốm hay chết sớm thì trăm sự
chỉ trông vào người con gái để “tay hòm tay khóa” quán xuyến gia đình ... Có
biết bao nhiêu người con gái đã quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha
mẹ già, em thơ dại cho tròn đạo hiếu. “Trẻ nhờ cha, già cậy con” là một thực tế
xã hội không thể chối bỏ trên cả hai phương diện tình cảm và vật chất. Với quan
niệm khoa học hiện nay coi sinh lý như một nhu cầu căn bản của một cơ thể ở mức
độ trưởng thành cần phải thỏa mãn, thì sự quyết định không đi lấy chồng để ở
nhà nuôi cha mẹ và các em là một sự hy sinh tuyệt vời. Sức mạnh nào đã giúp họ
chiến thắng những đòi hỏi ghê gớm của một cơ thể mạnh khỏe, nếu không là tình
yêu cha mẹ, anh em, giòng tộc ... trong ý nghĩa yêu là hy sinh, quên mình, sống
cho, sống vì kẻ khác !
*
- Chắp tay van vái Phật trời
*
- Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Trong xã hội Việt Nam cổ truyền, ý
niệm người tình gắn liền với ý niệm người vợ. Tình yêu phải tiến tới hôn nhân
và yêu nhau với ước mơ được sống trọn kiếp bên nhau trong tình nghĩa vợ chồng.
Và vì chuyện vợ chồng là chuyện quan trọng trong đời người, không thể nay lấy
mai bỏ như thay một chiếc áo, nên việc kén chọn tất phải cẩn thận qua nhiều mai
mối lễ nghi, như ca dao có câu:
*
- Chim khôn đậu nóc nhà quan
*
- Trai khôn tìm vợ, gái ngoan chọn chồng.
Chuyện tích Sơn Tinh, Thủy Tinh là
một điển hình của việc chọn dâu kén rể. Một phong tục tốt đẹp của Việt Nam có từ thời
Hùng Vương thứ 18. Đã nói đến kén chọn tất là phải dựa vào một tiêu chuẩn để
luận xét, cân nhắc nặng nhẹ, tốt xấu. Trong chuyện tích, Sơn Tinh cưới được Mỵ
Nương vì đến sớm đúng hẹn, còn Thủy Tinh đến chậm, lỡ hẹn nên mất vợ. Xét cho
kỹ, câu chuyện có bao hàm một triết lý sâu xa: Thứ nhất, việc đúng hẹn là giữ
tròn chữ Tín với một tấm lòng thành. Sơn Tinh đã coi việc lấy vợ là quan trọng
nên chuẩn bị chu đáo và quyết tâm làm đúng. Với tấc lòng thành tất cảm được
người, với đức Tín tất được người Tin. Tương quan vợ chồng là một tương quan
bình đẳng, đặt nền trên sự thành tín, nghĩa là thành thật với nhau và tin nhau.
Thứ hai, Sơn Tinh là thần núi non, núi tượng trưng cho đức Nhân. Thủy Tinh là
thần sông biển, tượng trưng cho đức Trí. Chữ có câu: “Trí giả nhạo thủy, Nhân
giả nhạo sơn, Trí giả động, Nhân giả tĩnh”, nghĩa là người Trí thích nước,
người Nhân thích núi, người Trí thích tính hiếu động, người Nhân thì ưa tĩnh.
So nặng nhẹ thì Nhân là đầu mối sinh ra các đức tính khác, có nhân mới có ái,
có lòng đôn hậu bao dung được người. Còn Trí thì dũng lược có thừa, nhưng hiếu
động ưa ganh đua, tất phải có điều tàn nhẫn với người. Vua Hùng Vương gả Mỵ
Nương cho Sơn Tinh, người có đức Nhân mà không gả cho Thủy Tinh là người có đức
Trí là lý do trên vậy.
Nếu trong thời gian dạm hỏi, xêu tết
trước khi cưới xin, được coi như giai đoạn làm người tình (ý trung nhân) thì
người con gái cũng đã tỏ ra xứng đáng, trong việc khuyến khích hôn phu tu tỉnh
học tập để lo danh phận và tương lai đôi lứa:
*
- Anh về học lấy chữ nhu
*
- Ba năm em đợi, chín thu em chờ.
Huống hồ trong cương vị một người vợ
đưa lưng gánh vác giang sơn nhà chồng thì việc an ủi chồng, khuyến khích chồng
và giúp đỡ chồng, chỉ là một sự đương nhiên như một bổn phận không thể thoái
thác. Đã có biết bao nhiêu thế hệ, người vợ tảo tần khuya sớm nuôi chồng ăn học
để thành danh phận, làm rạng rỡ tông môn và góp công xây dựng tổ quốc ?
*
- Canh một dọn cửa dọn nhà
*
- Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm
*
- Canh tư bước sang canh năm
*
- Trình anh dậy học chớ nằm làm chi
* - Một mai Chúa mở khoa thi
* - Bảng vàng chói lọi, kia đề tên
anh
* - Bỏ công cha mẹ sinh thành
* - Công em tần tảo nuôi anh học
hành.
Nhìn
những hàng bia đá ghi danh các vị đại khoa tiến sĩ, tất không thể vô ơn làm
lãng quên được những người vợ đáng kính đã tận tụy hy sinh, góp bao công sức để
chồng thành công, thành danh và thành người.
Ước mơ
“như chim liền cánh, như cây liền cành” là ước mơ chung của tất cả những cặp vợ
chồng. Chia ly là một sự đau khổ vô cùng mà Chinh Phụ Ngâm đã phản ảnh trọn vẹn
ý tình của người vợ trẻ gánh vác việc nhà khi chồng đi làm nghĩa vụ chinh nhân như:
* - Anh đi em ở lại nhà
* - Chăn tằm dệt lụa, mẹ già em lo.
Nếu hiểu
rằng đàn bà là cái “thiên cổ chi mê”, tức nỗi say mê truyền kiếp của đàn ông,
và anh hùng dù là mặt sắt cũng ngay vì tình, thì tất hiểu lý do của sự suy sụp
của bao triều đại, lý do thân bại danh liệt của những kẻ làm lớn, cũng như làm
láo, trốn tránh nhiệm vụ làm người và để từ đó, càng cảm phục thêm tấm lòng cao
đẹp của những người chinh phụ đóng của phòng khuê, chờ chồng đi làm nghĩa vụ
với non sông, còn mình ở nhà thay chồng làm bổn phận với cha mẹ và con cái. Họ
đã ý thức được tương quan nhân quả qua câu quốc phá gia vong, để chấp nhận hy
sinh hạnh phúc cá nhân cho tập thể nước nòi (phép công là trọng, niềm tây xá
nào) và âm thầm sống làm tròn nhiệm vụ:
* - Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
* - Dạy con đèn sách thiếp làm phụ
thân
* - Nay một thân nuôi già dạy trẻ
* - Mối quan hoài mang mể biết bao
Có một
điều hình như đã thành quy luật là: “Chồng có chung thì vợ mới trinh” tình yêu
bao giờ cũng đi đôi với sự kính trọng đặt nền trên tương quan bình đẳng. Chẳng
trách nào người xưa thường nói “yêu nhau vì nết, trọng nhau vì tài”. Nết là cái
nhân cách, mà nhân cách được thể hiện trong việc chu toàn bổn phận làm người.
Trốn tránh trách nhiệm là hèn nhát, mà đã hèn nhát thì không còn gì để nói nửa
! Đó cũng là lý do để giải thích thái độ quyết liệt của những tiết phụ, liệt nữ,
quyết sống xứng đáng với chồng “chàng đi theo nước, thiếp theo chàng” mà lịch sử
cận đại có thể nêu danh như cụ bà Phan Bội Châu, nhũ danh Thái Huyên. Khi cụ
Phan bị Pháp bắt giải về Việt Nam do sự chỉ điểm của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí
Minh sau này. Khi đến thăm cụ Phan, Bà cụ chỉ vắn tắt vài lời: “vợ chồng ly
biệt hơn hai mươi năm nay được một lần giáp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc
rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong cho thầy giữ được lòng xưa. Thầy làm những
việc gì mặc thầy, thầy chớ nghĩ đến vợ con”.
Như Cô
Giang, người tình và là đồng chí của Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân
Đảng khi tổ chức vỡ, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí
bị Pháp xử chém, cô Giang đã trở về làng của Nguyễn Thái Học và tự sát bằng
súng lục trong ý muốn được nhìn nhận và được chôn cất như con dâu họ Nguyễn.
Và còn
biết bao nhiêu tiết phụ, liệt nữ khác đã sống và đang sống ở khắp nơi trên quê
hương Việt Nam yêu dấu. Mẹ, vợ, người tình của những chiến sĩ cách mạng đang
chiến đấu trên khắp nẽo đường đất nước để tiêu diệt chế độ Công sản tàn bạo. Họ
là những vọng phu với niềm tin vô biên vào sức sống của chính mình những ngày
tháng trầm luân trong cuộc đời trôi nổi theo vận nước, cả trái tim và tấm lòng,
tâm trí hòa vào hồn nước đi theo cùng chồng, những người mẹ, người vợ họ chấp
nhận những thua thiệt để chỉ lo cho chồng, cho con và cho gia đình, để mong
được chia xẻ ngọt bùi chứa chan tình nghĩa.
Họ là
những vọng phụ của thời đại, những người mẹ hiền đáng kính, những người vợ đáng
thương, những người tình đáng yêu, họ không quên lời thề hứa, gian khổ cùng chịu,
hạnh phúc cùng chia, để cùng nhau sánh bước đi xa hơn cả cuộc đời.
Làm mẹ,
làm con, làm vợ, làm người tình, những giai đoạn được khoa học phân ra theo
diễn biến tâm lý cơ thể học, thì lại được người Việt Nam nhìn như những bổn
phận phải chu toàn trong tiến trình sống Làm Người để Thành Người. Vì được coi
là một tiến trình nên bổn phận đã không xung đột nhau mà là kế tiếp, bổ túc cho
nhau nối kết thành một xâu chuỗi, một toàn thể. Sự xung đột quyền lợi giữa cá
nhân và gia đình, giữa nhà và nước như nhiều người đã cố chứng minh từ lâu nay,
chỉ là biểu lộ một nhân cách không toàn vẹn, một lập trường chao đảo vì thiếu
căn bản, thiếu nền móng. Trái lại với cái nhìn của Đạo Hiếu Duy Nhân Cương
Thường thì đó chỉ là những nhiệm vụ xếp theo cấp bậc có tính biện chứng, đi từ
thấp lên cao trong một tiến trình hướng thượng, trong cái tinh thần ở địa vị
nào phải hoàn tất nhiệm vụ đó như “quân quân, thần thần, tử tử” vậy !
Thấm
nhuần truyền thống Đạo Hiếu của dân tộc, người phụ nữ Việt Nam đã làm tròn mọi
nghĩa vụ đối với đất nước, đối với nhà một cách trọn vẹn và tuyệt đẹp, cuộc
sống đối với người phụ nữ Việt ngoài những trách nhiệm nêu trên còn là cuộc
hành trình hoàn mãn của sự chết, chết trong yêu thương, chết nhưng để lại danh
thơm cho đời sau. Họ đã đứng thật thẳng, sống khiêm tốn trong sự giản dị đến
khó nghèo, làm biểu tượng cho sự hy sinh cao đẹp của muôn đời, sự hy sinh cao
đẹp của một nòi tình đặt lý tưởng Tổ Quốc lên trên hết .
Như đã
trình bày ở trên, dân tộc Việt Nam là một nòi tình, quê hương Việt Nam là một
quê hương ân sâu nghĩa nặng, đúng hơn là một dân tộc biết yêu, biết ghét. Ý
thức được sự yêu, sự ghét với những đối tượng rõ rệt, có lý do biện chứng rõ ràng.
Yêu cái nên yêu và ghét cái đáng ghét làm hai nhân tính, một dân tộc biểu lộ
tình cảm của mình qua những khuôn phép của lễ nghĩa được kết tinh trong Đạo Hiếu.
Và cũng
như đã trình bày ở trên, Đạo Hiếu là một triết lý sống, một phương cách tu thân
xử thế, sống Làm Người để Thành Người mà Nhân Chủ là lý tưởng phải đạt tới, như
di huấn của tiền nhân đã để lại, truyền đời là bí quyết để giữ nước nòi qua
biểu tượng Tiên Rồng.
Định đề
căn bản của Đạo Hiếu là Nhân Bản Hồ Tổ,
người gốc từ tổ tiên, tức là truy nhận nguồn gốc Người của mình (khác với Bọn
người cho rằng người từ khỉ). Từ định đề căn bản này với việc truy nhận tổ tiên
từ xa xưa đã đưa đến hệ luận: Giòng tộc, nước nòi là một thực thể, sống động
bất khả phân ly, ở đó quá khứ với những thế hệ đã qua, hiện tại với những thế
hệ đang sống còn và tương lai với những thế hệ sẽ nối tiếp để Tiến-Hóa chỉ là Một, một giòng sinh
mệnh như ngàn vạn con suối nhỏ đi ra sông và từ ngàn vạn con sông kia lại cuồn
cuộn cuốn trôi về biển Đông
Trong
giòng sinh mệnh dân tộc ấy người phụ nữ Việt Nam, như những thành phần làm nên
toàn thể, trong cương vị làm con, làm người tình, làm vợ, làm mẹ trong gia đình
và cương vị làm dân trong phạm vi đất nước, cũng đã hoàn tất những bổn phận
được giao phó một cách thập phần hoàn hảo, để làm cho dân tộc được trường tồn
và tổ quốc thêm vinh quang
Trần Chính Trung
No comments:
Post a Comment