TỪ CẤM ĐẠO ĐẾN CÔNG CỤ HÓA TÔN GIÁO
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Đạo Chúa được truyền
vào đất nước ta từ năm 1533 đời Lê Trang Tôn. Trải qua gần 500 năm,
Giáo Hội Công Giáo Vietnam (GHCGVN) luôn gặp phải những cấm cản, thậm
chí đàn áp, tiêu diệt của các triều vua chúa phong kiến. Ngày nay dưới
chế độ cộng sản (CS), việc cấm đạo còn tệ hơn gấp bội. Nó không chỉ
nhắm vào GHCG không thôi, mà còn bao trùm trên tất cả mọi tôn giáo, và
biến đổi đi theo một hình thái mới, từ việc tiêu diệt một tín ngưỡng
qua việc biến tính các tôn giáo thành những công cụ hầu phục phụ cho
chế độ.
Các tác gỉa của cuốn
Sách Đen (Livre Noir) đồng ý cho rằng cộng sản (CS) là một thảm họa
lớn nhất cho loài người trong thế kỷ 20. Nhìn riêng trên khía cạnh tôn
giáo không thôi, gọi CS là thảm họa thiết tưởng không sai tí nào.
Việt Nam là một quốc
gia đã chịu đựng thảm họa CS chính thức từ 50 năm nay (từ 1954). Cái
thảm họa này mọi thành phần dân tộc đều cùng chia phần gánh chịu.
Riêng GHCGVN phải gánh phần có thể nói là nặng nề vượt trội. Trong bài
viết này, tôi muốn đối chiếu cơ bản hai hình thức cấm đạo thời vua
chúa phong kiến và dưới chế độ CS ngày nay để làm nổi bật lên cái bản
chất phi tôn giáo của CS. Sau đó bàn đến những thiệt hại trước mắt,
cũng như những di hại về sau do chế độ CS gây nên mà GHCGVN sẽ còn
phải chịu đựng cả sau khi chế độ này không còn tồn tại trên đất nước.
Nhân đây cũng xin được
lưu ý bạn đọc về ý nghĩa của một vài từ ngữ thường gặp trong lối nói
hàng ngày. Hai cụm từ "đàn áp tôn giáo", hay "tiêu diệt tôn giáo", mỗi
nhóm chữ này tuy có nghĩa riêng của nó, nhưng cả hai đều bao hàm chung
một nội dung là "cấm đạo". Nghĩa là chủ trương dùng những biện pháp
cưỡng chế theo ý muốn của nhà cầm quyền nhằm mục đích bắt người có đạo
phải từ bỏ tín ngưỡng của mình, ngăn cấm tự do hành đạo và giảng đạo.
Để tránh sự gò bó trong mạch văn, người viết xin được xử dụng hai cụm
từ này chung trong ý nghĩa là "cấm đạo" cho tiện. Riêng cụm từ "biến
tính tôn giáo" (religious transmutation), người viết dùng để nói đến
đường lối cấm đạo đặc biệt ngày nay của chế độ CSVN. Phương pháp cấm
đạo này sẽ được đặc biệt bàn đến trong bài.
NHỮNG CÁCH CẤM ĐẠO
XƯA VÀ NAY
Nhìn chung, từ việc cấm
đạo của một số vua chúa thời phong kiến trước đây đến chủ trương tiêu
diệt tôn giáo của CS hiện nay tại Vietnam , ta thấy có một khoảng cách
khá xa về 3 phương diện: Chủ trương, nguyên nhân và đường lối áp dụng.
Cần phân biệt cho rõ các khía cạnh của vấn đề thì mới hiểu được sự
tinh vi, tàn bạo và vô luân của chế độ CSVN.
- CHỦ TRƯƠNG
Người chủ trương cấm
đạo thời phong kiến tại Vietnam là các vị vua chúạ. Họ đều là những
người duy tâm và có tín ngưỡng. Nhiều người rất sùng đạo nữa là khác.
Việc cấm đạo phát sinh do tính hẹp hòi và đầu óc thiển cận của những
người lãnh đạo thủ cựu trước bối cảnh giao tiếp của hai nền văn hóa
Đông Tây. Đạo Chúa vào Vietnam là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ so với
các tôn giáo đã có sẵn nề nếp trong nước. Lại cũng khác hẳn về giáo lý
lẫn phụng vụ. Những yếu tố đó lồng trong bối cảnh đất nước bị ngoại
xâm đe dọa nên không dễ dàng được những đầu óc bình vôi thủ cựu chấp
nhận. Hơn nữa, vua chúa phong kiến nắm mọi quyền hành độc đoán trong
tay, lại tự cho mình có trách nhiệm thay Trời cai trị thiên hạ, nên
việc chuyên quyền quyết đóan đưa đến sai lầm là điều rất dễ xẩy ra.
Điểm đáng lưu ý ở đây là hành động cấm đạo của các vua chúa chỉ nhằm
mục đích ngăn cấm truyền bá một tín ngưỡng bị cho là gây nguy hại cho
xã hội và triều đình, tuyệt đối không cấm tất cả mọi tôn giáo hoạt
động, cũng không chủ trương tiêu diệt ý thức về tôn giáo nơi con
người.
Ngược lại, chủ thể của
việc cấm đạo ngày nay là đảng CS vô thần. Đảng này được xây dựng trên
nền tảng triết học duy vật biện chứng. Triết thuyết này chối bỏ Thượng
Đế và mọi thần linh, cũng không thừa nhận bất cứ một ý thức tôn giáo
nào. Lý thuyết này đúng ra
đã có từ lâu đời, đến nay Marx hệ thống lại, được Lenin triển khai
thực hành và biến nó thành vũ khí chính trị để đấu tranh dành chánh
quyền. hãy nghe những ông tổ CS này nói về tôn giáo. Marx: "Tôn giáo
là thuốc phiện của loài người". Và Lenin: "Hàng triệu hành động bẩn
thỉu nhất, hành vi bạo tàn nhất, bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất vẫn
không nguy hiểm bằng những ý niệm về thần linh, về thượng đế được bao
che bằng cái áo lý tưởng khôn ngoan nhất".
- NGUYÊN NHÂN
Như thế cho thấy việc
cấm đạo của CS là một giáo điều nằm trong một học thuyết phi tôn giáo,
phủ nhận mọi tín ngưỡng, chối bỏ mọi niềm tin vào thần linh, coi tôn
giáo là kẻ thù cần phải tiêu diệt. Điều đó giải thích tại sao CS ngăn
cấm và tìm cách tiêu diệt mọi tôn giáo chứ không trừ ra một tôn giáo
nào.
Còn về việc cấm đạo của
các vua chúa thời phong kiến tại nước ta, có hai lý do để giải thích.
Một là vì cho rằng đạo công giáo là một thứ tà đạo ngoại nhập xúi dục
và mê hoặc người dân trong nước làm những điều trái với luân thường
đạo lý, với phong tục tập quán lâu đời của người dân, với nếp sống văn
hóa của xã hội. Hai là vì nghi ngờ các giáo sĩ truyền giáo là những
người thực dân cướp nước, đe dọa đến quyền hành của triều đình, và
giáo dân đều là những kẻ dốt nát đã bị thực dân mê hoặc.
- ĐƯỜNG LỐI
Đường
lối cấm đạo dưới các triều Minh-Mạng, Thiệu-Trị, và Tư-Đức nhà Nguyễn,
và một số các ông Chúa thời phân tranh nói chung rất tàn bạo. Đường
lối này dẫn đến việc xử dụng các biện pháp tàn ác và quyết liệt như
chặt đầu, giam cầm, đầy ải, tịch thu tài sản, phân sáp v.v. Triều đình
ra nghiêm lệnh cấm truyền bá đạo. Các chỉ dụ đều ghi rõ giết hoặc
thích chữ "Tả đạo" vào mặt, và bắt đi lưu đầy những ai không tuân lệnh
của triều đình, phân sáp các làng công giáo. Thánh đường bị triệt hạ.
Tài sản bị tịch thu v.v.
Việc cấm đạo cũng giống
như một trận bão lớn thổi ngang qua một cánh rừng. Mưa gío ào ào lướt
tới. Có cây đổ. Cây gẫy cành. Lá rụng tơi tả. Cả khu rừng cúi rạp mình
xuống để chịu đựng khi cơn bão đổ tới. Nhưng khi trận bão đi qua, dưới
ánh mặt trời quang đãng, khu rừng lại vươn mình trỗi dậy. Sức sống xem
chừng còn tràn đầy hơn trước. Trận bão chỉ là một hiện tượng vật lý
xẩy ra trong thời gian ngắn, đơn vị đếm được là ngày. Sự thiệt hại của
khu rừng nhiều ít tùy theo sức gío, và lượng mưa. Trận bão đi qua
không hề để lại thiệt hại về sinh thái cho khu rừng.
Bằng biện pháp tàn sát
như đã thấy, việc cấm đạo của các vua chúa tất nhiên gây nên rất nhiều
thiệt hại. Thiệt hại về tài sản, nhất là thiệt hại về sinh mạng. Sự
thiệt hại về nhân mạng theo sách vở ước lượng là 130.000 (Lm Bùi đức
Sinh OP. Lịch sử GHCG, trang 392). Nhưng khi việc cấm cách qua đi đến
đâu, GH vươn mình sống dậy mạnh mẽ và tươi tốt đến đó. Với lề lối cai
trị của thời phong kiến, triều đình tưởng chỉ cần ban bố vài ba cái
Đạo hoặc Chỉ Dụ là giải quyết xong được vấn đề. Chịu đựng những biện
pháp tàn ác như thế, nhưng lịch sử cho thấy, càng bị đàn áp, GH thời
đó càng kiên trì sống đạo, cộng đồng giáo dân càng đoàn kết, giáo lý
càng trong sáng. Đó là điểm cần lưu ý.
Ngày nay, trong nỗ lực
tiêu diệt các tôn giáo, VC áp dụng đường lối hoàn toàn khác các vua
chúa xưa kia, theo đúng đặc tính lưu manh, xảo trá và quỉ quyệt của
chế độ. Hồi ký của một điệp viên CS Liên Sô được đặt tên là Michael đã
len lỏi lên tới hàng ngũ cao cấp trong GHCG viết: "I would
particularly never lose sight of the fact that persecutions only make
martyrs of whom Catholics have reason to say that they are seeds of
Christianity. Therefore, no martyrs." (AA 1025, The Memoirs of an
Anti-Apostle). Xin tạm dịch: Trích từ cuốn AA 1025, Hồi ký của một tên
phản đồ: "Đặc biệt không bao giờ tôi quên để tâm tới sự thể là khủng
bố chỉ tạo ra người tử đạo mà các tín hữu đều có lý do nói rằng máu tử
đạo là hạt giống làm triển nở GH. Do đó, không để có tử đạo được".
Đường lối khác nên biện
pháp áp dụng cũng có khác. Trước hết có thể khẳng định rằng dưới chế
độ CS vô thần không có luật pháp nào minh thị cấm đạo cả. Hiến Pháp
VC hiện hành điều 70 không cấm mà còn minh nhiên cho phép công dân có
quyền tự do tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng. Chính cái quyền tự do
tín ngưỡng hữu danh vô thực này đã đẻ ra đủ mọi thủ thuật đàn áp rất
tinh vi và xảo trá. Chỉ nhìn bề ngoài, người quan sát thấy nhân dân
Vietnam hầu như có hoàn toàn quyền tự do tôn giáo. Phải tìm hiểu cho
thật cặn kẽ mọi khía cạnh thì mới biết rõ được vấn đề. Chẳng hạn Hiến
Pháp công nhận quyền tự do tôn giáo, nhưng đủ thứ luật lệ như Sắc Lệnh
(đạo luật), nghị định, qui định v.v. về tôn giáo của đủ mọi cấp chánh
quyền và đoàn thể lại tìm cách trói buộc, hạn chế hoặc cấm cản. Rất ít
giết chóc công khai, nhưng ngấm ngầm thủ tiêu thì không ít. Không có
ai bị bắt bớ tù đầy vì lý do tôn giáo, nhưng áp dụng quản chế trên hầu
hết mọi giáo sĩ. Những giáo sĩ bị nghi ngờ là nguy hiểm đối với chế độ
bị bắt giữ không xét xử toàn là vì những tội danh bịa đặt. Cấm các tôn
giáo in ấn sách đạo, nhưng nhà nước độc quyền in ra sau khi đã sửa đổi
nội dung cho phù hợp với chủ trương của đảng, rồi bán ra cho các tín
đồ đọc. Cho chiêu sinh vào các chủng viện nhưng nhà nước toàn quyền
tuyển chọn ứng viên. Tóm lại, những biện pháp này và muôn ngàn biện
pháp tinh vi và ma giáo khác được CS xử dụng cốt để biến đổi bản tính
các tôn giáo thành một thứ tôn giáo vụ vào hình thức làm công cụ cho
chế độ. Trong khoa học, người ta có thể biến hướng dòng chẩy của một
con sông theo ý muốn của con người để làm lợi cho kinh tế. Chánh sách
tôn giáo của CSVN ngày nay cũng thế, biết không thể tiêu diệt nổi các
tôn giáo, CS lèo lái các giáo hội đi theo con đường chúng vạch ra để
phục vụ cho chế độ.
NHỮNG THIỆT HẠI DO
CS CẤM ĐẠO GÂY RA
Phương pháp cấm đạo mới
mẻ này tất nhiên gây nên rất nhiều thiệt hại cho các giáo hội, đặc
biệt là GHCG. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ nêu và dẫn chứng
GHCG làm điển hình. Các giáo hội khác thiết tưởng không nhiều thì ít
cũng đều chịu chung số phận như thế cả.
Có nhiều hình thức thiệt
hại khác nhau, nhưng có thể xếp gom lại trong ba lãnh vực sau: sinh
hoạt, giáo lý, và lãnh đạo. Những thiệt hại trong lãnh vực sinh hoạt
có thể gọi là dạng ngắn hạn, vì dạng này có thể phục hoạt trở lại chỉ
trong thời gian ngắn khi có điều kiện. Trái lại, những thiệt hại trên
hai lãnh vực giáo lý và lãnh đạo được xếp vào dạng dài hạn, vì đó là
những di hại có thể nói là truyền đời, không thể phục hồi trong một
vài tháng, một vài năm, thậm chí một vài chục năm.
Sau đây chúng ta xem
xét về những thiệt hại đó trên từng lãnh vực.
- SINH HOẠT
Các sinh hoạt của GHCG
được xét đến qua 2 khía cạnh: phương tiện và các hoạt động của GH.
Phương tiện bao gồm các
cơ sở vật chất như thánh đường, nguyện đường, tu viện, trường học,
bệnh viện, các cơ sở ấn loát, từ thiện, xã hội như cô nhi viện, nhà
dưỡng lão, câu lạc bộ sinh viên v.v. đất đai và các tài sản khác.
Hoạt động của GH ngoài
phụng vụ, còn trải rộng trên các lãnh vực y tế, giáo dục và xã hội. Cả
hai mặt hoạt động và phương tiện trong vấn đề sinh hoạt của GH liên hệ
cơ hữu với nhau, vì không có phương tiện thì dĩ nhiên là không thể
hoạt động hữu hiệu được. Do đó ngay khi vừa lên nắm quyền, VC đầu tiên
nghĩ ngay đến chuyện cắt đứt hết mọi phương tiện sinh hoạt của GH. Chỉ
trừ một số thánh đường, còn tất cả đều bị tịch thu trắng trợn, hoặc
huê dạng dưới hình thức "tự nguyện" hiến tặng.
Cho đến nay, tất cả
những cơ sở của GH bị CS tịch thu đều coi như mất đứt luôn. Nghĩa là
không hoàn trả, cũng không hy vọng đòi lại được. Hơn thế VC còn muốn
cướp luôn những gì GH còn may mắn giữ lại, như đất dòng Thiên An ở
Huế, đất Thánh địa La Vang ở Quảng Trị, đất nhà chung bên cạnh nhà thờ
chánh tòa Hanoi v.v.. Mới đây nghe nói VC trả lại cơ sở trước kia gọi
là câu lạc bộ (CLB) Phục Hưng tại Saigon cho dòng Đaminh. Chuyện nghe
có vẻ hi hữu đấy, nhưng nó cũng có lý do của nó. CLB này trước kia là
tài sản của dòng Đaminh chi Lyon , Pháp. Hồi đó dòng Đaminh tại VN
thuộc hai chi nhánh riêng biệt là Lyon, Pháp, và Manilla , Philippines
. Bây giờ cả hai nhánh hợp nhất thành một và trong dòng có hai linh
mục quốc doanh thứ gộc là Thiện Cẩm và Đinh Châu Trân. VC trả CLB này
lại cho nhà dòng chẳng phải có ý tốt lành gì. Chúng trả cơ sở này lại
cho dòng Đaminh, nhưng thực tế là giao cho quí ngài quốc doanh Thiện
Cẩm quản lý để ông có phương tiện hoạt động hầu "nắm đầu" sinh viên
cho chúng, vì cơ sở này là một câu lạc bộ sinh viên. Sự việc là thế.
Chuyện ngược đời hiện
nay là các cơ sở khác thì VC chiếm không nhả ra, nhưng các thánh đường
thì tại một số nơi, chúng còn thiếu điều năn nỉ giáo dân lấy lại dùm
nữa mới lạ. Chuyện nữa khó tin nhưng có thật là VC còn ngấm ngầm thúc
đẩy giáo dân trùng tu các thánh đường đã cũ nát, và xây cất mới càng
nhiều càng tốt và càng nguy nga đồ sộ càng hay. Đây là chánh sách diệt
CG hết sức tinh vi của CSVN. Chánh sách này, theo tiết lộ của tên Hai
Cẩn, bí thư huyện ủy Gò Vấp trước đây có 5 tác dụng:
a/ GH kiếm dollar từ nước ngoài về cho nhà nước.
b/ Thúc đẩy kinh tế phát triển qua ngành xây cất.
c/ Tạo công ăn việc làm cho công nhân.
d/ Làm cho giáo dân nghèo đi và cơ cực hơn vì phải đóng góp công sức và tiền bạc, từ đó tạo bất mãn giữa giáo dân và chủ chăn, đồng thời còn một tác dụng nữa là gây ý thức đố kỵ với các tôn giáo khác trong nước.
e/ Sau cùng và quan trọng nhất là phô trương chánh sách tự do tôn giáo bịp của nhà nước CS.
Do sự thả lỏng và
khuyến khích ngầm của CS, hiện nay tại VN, chuyện xây mới và trùng tu
nhà thờ đang nở rộ như một phong trào. Nhiều giáo dân có máu trào
phúng đã ví nó như phong trào "nuôi cút" ngày xưa. Nhiều nhà thờ hãy
còn xử dụng tốt phải đập đi xây mới lại cho kịp với phong trào. Có
linh mục gởi thơ sang Mỹ quyên tiền kèm tấm card mầu có hình linh mục
cùng với 7 ngôi nhà thờ cha đã xây. Nay ngài xin giúp đỡ để xây thêm
ngôi thánh đường thứ 8. GH cũng đã nhận thấy tình trạng phi lý này.
Chính đức hồng y Phạm Minh Mẫn khi đến khánh thành thánh đường giáo xứ
Hanoi tại Xóm Mới, Gò Vấp đã kín đáo khuyên các linh mục của ngài như
sau: "Các cha đừng làm nhà thờ như những tay cua rơ xe đạp". Chỉ một
lời khuyên nhẹ nhàng thôi không có tác dụng. Tình trạng vẫn lan tràn
khắp nơi, và hiện nay người ta vẫn thấy các linh mục VN ào ào đổ ra
ngoại quốc quyên góp tiền bạc về xây nhà thờ.
Nhìn vào tình hình xây
nhà thờ chúng ta thấy rõ ràng là khi điều kiện cho phép thì những
thiệt hại về vật chất có thể khôi phục lại một cách rất mau chóng.
Nhưng ở đây sự khôi phục qúa đà đã trở nên tai hại và mang những hậu
qủa không lường được về niềm tin của người ngoài đối với GH và về lối
sống của nhiều linh mục.
GHCG vốn tự hào là GH
của người nghèo. Các ngôi thánh đường qúa nguy nga tráng lệ trong bối
cảnh và cuộc sống hôm nay của người dân trong nước có phản ảnh đúng
niềm tự hào đó không, hay tự chúng đã trở thành phản chứng của Tin
Mừng mất rồi? Trong một khu vực dân cư nghèo nàn, nơi quần tụ của đủ
mặt các tôn giáo khác nhau mà chùa chiền thì đổ nát hoang sơ, thánh
thất rêu phong dột bấy, giảng đường (Hòa Hảo) tiêu điều vắng vẻ, GH có
nên xây cất lên một ngôi thánh đường qúa bề thế tại đó không? Gỉa dụ
cho vui, đôi khi Đức Phật, Đức Thầy, hoặc Thiên Nhãn ở quanh đấy muốn
ghé thăm Chúa, liệu các vị khách có cảm thấy rụt rè e ngại khi bước
vào mà thấy nhà Chúa qúa lớn, qúa sang không? Từ đó nẩy sinh thắc mắc
là ngôi thánh đường nguy nga kia với những lễ lạt đông đúc sầm uất
trong bối cảnh và thực trạng của khu vực có thật sự làm vinh danh
Chúa, hay đã làm Chúa phải mất mặt trước các vị khách quí nói trên, vì
chính họ đã từng nghe Ngài dậy dỗ môn đệ của Ngài rằng: "Phúc cho kẻ
sống khó nghèo vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Đã từ lâu lắm rồi,
người dân VN mang ấn tượng rằng đạo Chúa là một tôn giáo giầu có và
quyền quí nên có câu tục ngữ "đi đạo lấy gạo mà ăn". Cái ấn tượng thật
tai hại mà không biết có ai chịu để tâm và suy nghĩ không?
Phong trào thi đua xây
nhà thờ khả dĩ còn gây nên sự nghi ngờ nơi giáo dân về tinh thần đạo
đức và tính ngay thẳng của các linh mục. Thật vậy, khi một vị linh mục
ra ngoại quốc xin tiền xây nhà thờ, giáo dân tại hải ngoại ào ào đưa
tiền trao vào tay cha. Dĩ nhiên họ trao ra cho mục đích xây nhà thờ
nên đồng tiền này đã trở thành tài sản chung, của thánh. Nếu tiền này
được dốc hết ra để xây nhà thờ thì đó là điều tốt. Nhưng việc tốt
phỏng có được bao nhiêu! Thực tế không thiếu trường hợp các linh mục
nghĩ rằng tiền người ta cho là cho cha nên cha có quyền xài thế nào
tùy ý cha. Dĩ nhiên cha xây nhà thờ, nhưng cũng đổ vào các việc tư
riêng của cha không ít. Phải xây nhà xứ tương xứng cho cha xứ ở, phải
trang trí, sắm tiện nghi cho nhà xứ, và có khi còn phải tậu xế 4 bánh
để cha có phương tiện đi lại. Rất có thể còn những nhu cầu thầm kín
khác nữa, ai mà biết được. Với một cơ ngươi bề thế cùng những phương
tiện và tiện nghi hiện đại của lối sống văn minh ngày nay, ông cha xứ
sống giữa đám bổn đạo nghèo xơ xác tự nhiên mang hình ảnh một tên lãnh
chúa quyền uy thời nô lệ từ lúc nào mà chính cha cũng không hay.
Chuyện xoay xở tiền bạc
để làm nhà thờ đối với một số linh mục quan trọng đến độ còn hơn việc
chăm sóc phần hồn cho bổn đạo. Có vị đã nằm lỳ ở bên Mỹ này hàng nửa
năm trời kiếm cho đủ chỉ tiêu mới chịu về. Có vị bị con chiên "việt
kiều" lừa vào tròng. Lũ con chiên lưu manh dỗ ngọt ông cha đổi tiền
mặt ra check để cầm về cho dễ. Khi nhận check cha còn đứng cho tờ báo
đạo của chúng chụp hình. Tờ báo này bay về VN trước ông cha. Khi cha
bước chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất, công An khám xét tịch thu tấm
check, giơ ra tờ báo chứng minh ông cha nhận tiền của CIA để hoạt động
chống nhà nước. Rất may là cha chỉ mất tiền, không bị đưa ra tòa về
tội làm gián điệp. Con chiên bổn đạo thương an ủi cha xứ của mình "mất
của nhưng còn người là may rồi".
- GIÁO LÝ
Có thể có bạn đọc nghi
ngờ và thắc mắc làm sao việc CS cấm đạo lại di hại đến giáo lý của tôn
giáo. Vấn đề này có thật và còn rất tai hại nữa. Mitrokhin, một trùm
tình báo KGB đã tiết lộ trong một báo cáo về tình hình tôn giáo năm
1961: "Chúng ta phải gài người của chúng ta vào hàng ngũ các chủng
sinh để về sau họ sẽ gây ảnh hưởng lên các hoạt động của giáo hội
Chính Thống Nga. Họ sẽ là nhân viên của chúng ta ảnh hưởng đến các tín
đồ".
Như trên chúng tôi đã
viết, ngày xưa vua chúa cấm đạo nhưng không tiêu diệt ý thức về tôn
giáo. Cho đến khi Marx đưa ra chủ nghĩa CS, ông mới nêu vấn đề tận
diệt nơi con người ý thức về Thượng Đế. Các chế độ CS từ Liên Sô cho
đến VN đều rắp tâm thực hành kinh điển của Marx. Thế nhưng cho đến
nay, CS mới khám phá ra rằng chúng đã hoàn toàn thất bại trong việc
tiêu diệt nơi con người lòng tin vào Thượng Đế. Nhưng chúng đã tìm ra
được một đường lối khác thay thế. Đường lối đó là không tiêu diệt được
tôn giáo thì thay đổi nó để sai khiến nó. Vấn đề này đòi hỏi thời gian
và bắt đầu từ việc thay đổi giáo lý nền tảng của tôn giáo.
Giáo lý của đạo Chúa
nằm trong Thánh Kinh, giáo huấn của các Công Đồng, các giáo phụ, tông
huấn của các giáo hoàng v.v. Tất cả đều được viết bàng ngoại ngữ. GHVN
để có sách dùng nên phải dịch sang tiếng Viet cho thông dụng. Các bản
dịch xưa văn chương qúa cổ, nên ngày nay các sách đã được dịch lại cho
thích hợp hơn. Dịch lại thì dễ rồi vì GH không thiếu nhân sự. Nhưng
còn in? Đây là hai khía cạnh của vấn đề mà chúng ta đang bàn đến.
Trước hết xin nói về
người dịch.
Hiện nay tại tổng giáo
phận Saigon có một ban tu thư dịch thuật gồm linh mục, nữ tu, và giáo
dân. Họ vào khoảng vài chục người. Trên những sách quan trọng như Kinh
Thánh, sách lễ, chúng ta thấy có để tên các dịch gỉa này. Có lẽ vì
khiêm tốn, tên tuổi của quí vị không thấy kèm theo danh hiệu, bằng cấp
hoặc chức vụ. Tuy nhiên họ hẳn là phải thuộc hàng "elite" mới đủ khả
năng làm công việc đó. Trong số các dịch giả có một nhân vật mà tiếng
tăm thì có thể không một giáo dân nào không biết tới. Đó là cha Thiện
Cẩm. Ông là một linh mục quốc doanh loại gộc. Trong hệ thống linh mục
chính ủy hiện nay, Thiện Cẩm chỉ đứng sau nhóm "Tứ nhân bang"
Minh-Cần-Từ-Bích. Thử nghe Lm Thiện Cẩm nói về tự do tôn giáo tại VN:
"Thực tế là chúng tôi không hề còn một mảy may nghi ngờ nào đối với
chính sách của đảng và nhà nước về tôn giáo. Chính sách ấy trước sau
như một là tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo". Ngoài ra,
người viết còn biết được 2 nhân vật khác. Một vị là linh mục rất hăng
say trong nhóm biểu tình đòi trục xuất đức khâm sứ Henry Le Maitre và
hạ bệ đức cha Nguyễn Văn Thuận, TGM phó giáo phận Saigon . Vị này đã
chết. Một người khác nữa là một giáo dân trước kia hoạt động trong
nhóm "Sống Đạo" tại Saigon . Ông trốn động viên Thủ Đức, chui vào làm
lính trơn tại một đơn vị tham mưu trong quân đội. Sự có mặt của các
nhân vật nêu trên (và rất có thể còn nhiều người khác nữa trong ban
dịch thuật) không thể nào không khiến cho người ta nghi ngờ có bàn tay
CS dính vào công tác phiên dịch này. Từ đó dặt ra vấn đề trung thực
của các bản dịch, mặc dù các sách này đã có phép "imprimatur" (được
phép in) của đức TGM Phạm Minh Mẫn và viện phụ Phước Sơn Vương Đình
Lâm.
Ngoài những bộ sách quan
trọng có ghi tên dịch gỉa, còn là không thiếu những sách kém quan
trọng khác được dịch chui, nghĩa là không để tên người dịch trên sách.
Tất cả những sách dịch chui hay không chui đều được in tại các nhà in
quốc doanh và bán hầu như công khai trong nước. Như vậy lại phải bàn
đến vấn đề in ấn.
Ai cũng biết CS nắm
trong tay mọi cơ sở ấn loát. Do đó nhiều người ở ngoài này cứ tưởng
rằng giáo dân trong nước không có sách đạo để đọc. Nghĩ thế là lầm to.
Trái lại, giáo dân trong nước bây giờ không thiếu bất cứ một loại sách
đạo nào, từ Kinh Thánh đến các sách truyện. Không những thế, sách đạo
trong nước còn thấy xuất khẩu sang Mỹ do đồng bào về thăm nhà mang ra.
Sự kiện trong nước không thiếu thốn sách đạo thật sự là một hiện tượng
ngược đời và lạ lùng ít có người ngờ và hiểu nổi, buộc lòng những
người quan tâm đến vấn đề tự do tôn giáo đặt ra hàng loạt thắc mắc về
người dịch, người in, và sự trung thực của các bản dịch.
Chuyện khá lý thú là CS
cấm phổ biến sách báo đạo, nhưng chúng lại công khai in sách đạo cho
GHCG. Nói thế có nghĩa là tất cả mọi sách vở của GH hiện nay đều được
in từ cơ sở ấn loát của nhà nước CS. Đúng
vậy. Một số sách có ghi cơ sở ấn loát đàng hoàng. Cuốn Kinh Thánh Trọn
Bộ được in tại Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 62 Nguyễn Thị Minh
Khai, Q1. Cuốn Lời Chúa Trong Thánh Lễ, tức sách lễ, in tại Nhà Xuất
Bản Tôn Giáo, 10 Chu Văn An, Hanoi . Một số không ghi cơ sở ấn loát
nhưng được ngụy trang qua dòng chú thích trang đầu sách, chẳng hạn
"Tài liệu học tập tư" v.v.. Câu hỏi được đặt ra là những sách này khi
đem đến in có bị công an văn hóa kiểm duyệt không? Câu trả lời chắc
chắn một trăm phầm trăm là CÓ. Một chứng minh cụ thể là trong cuốn Mẹ
Đến Lần Cuối trang 38 bị kiểm duyệt “bỏ” với ghi chú ở cuối trang dòng
chữ "Bỏ đi vài đoạn không cần thiết. Chúng tôi đánh dấu bằng (.....)".
Câu văn trước đoạn phải bỏ do kiểm duyệt viết: "Tin đồn lan đi nhanh
như thuốc súng khắp vùng ấy và xa hơn. Công an cảm thấy lúng túng". Sự
thể được hiểu là công an CS Nam Tư đã thất bại trong việc ngăn chận
tin đồn về chuyện Đức Mẹ hiện ra (chú thích của người viết). Ngoài ra
điều hiển nhiên không cần chứng minh là trong chế độ CS, không thể có
bất cứ một ấn loát phẩm nào mà không bị kiểm duyệt. Sách đạo càng
không có điều kiện miễn trừ hơn. Đối với bọn CS tham lam thì không gì
chúng không dám làm, miễn là có tiền. Tuy nhiên có tiền thì có tiền,
nhưng đừng hòng chúng lơ là vấn đề trị an của chế độ.
Một thắc mắc khác nữa về
sự trung thực trong nội dung của các sách dịch măc dầu như trên vừa
nói đã được phép Imprimatur của các đấng bản quyền. Tuy hai cuốn sách
lễ và Kinh Thánh không thấy có vết tích rõ ràng về kiểm duyệt, nhưng
chuyện dịch khác đi một số chữ hoặc câu trong đó đã được nhiều bậc cao
minh ở hải ngoại đặt ra trên báo hoặc trên internet. Ngoài những
trường hợp đã được nêu lên, người viết xin đưa ra nhận xét về hai
trường hợp khác: một trong Kinh Thánh và một trong sách Lễ. Trong Kinh
Thánh, người dịch dùng chữ "Đức Giêsu" thay vì "Chúa Giêsu", và câu
trong Thánh Lễ "Chính nhờ Đức Kito, cùng với Đức Kito, và trong Đức
Kito" thay vì "Chính nhờ Người, với Người và trong Người".
Văn từ đọc trong Thánh
Lễ, tất cả mọi ngôn ngữ đều giống nhau. Câu tiếng Mỹ là "Through Him,
with Him, and in Him" thì tiếng VN phải là "Chính nhờ Người, với
Người, và trong Người", chứ không thể dịch là "Chính nhờ Đức Kito,
cùng với Đức Kito, và trong Đức Kito" được. Lý do khiến người ta dịch
khác đi, theo một số linh mục trong nước ra cho biết, là vì có chữ
NGƯỜI viết hoa trong câu. Chữ Người dùng ở đây theo văn phạm VN là đại
danh từ (pronoun). Ở trong nước, chữ này viết hoa chỉ được dùng để nói
về Hồ Chí Minh mà thôi. Dùng chữ Người viết hoa trong bất cứ trường
hợp nào cũng là bất kính đối với lãnh tụ và có thể bị trừng phạt. Nhà
thơ Trần Dần của miền Bắc đã đi tù gần suốt cuộc đời vì hai câu thơ
ông viết:
Xưa nay Người vẫn chẳng tin Người
Người vẫn thường kinh hoàng
trước tương lai
Có thể các dịch gỉa trong ban dịch thuật của giáo phận đã thấy được cái gương Trần Dần trước mắt nên cho rằng Chúa Giêsu dù là Đấng Quyền Năng nhưng đây là Việt Nam, ai quyền năng hơn "bác hồ" của họ đây?
Cố tình dịch sai như
trên chưa phải là chuyện quan trọng vì câu dịch không sai về ý nghĩa
mà chỉ sai về hình thức. Còn trường hợp dịch chữ "Đức Giêsu" thay chữ
"Chúa Giêsu" xem ra có dụng ý lớn chứ không phải vừa. Thật vậy, VN vốn
là một dân tộc tôn ti trọng đạo, vì thế ngôn ngữ VN cho thấy cách dùng
tiếng xưng hô rất quan trọng. Chữ chúa trong danh từ kép "vua chúa"
mang ý nghĩa khác với chữ Chúa trong lối dùng để nói về Thượng Đế.
Người tín hữu nói Chúa Giêsu để chỉ Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa. Nói
"Đức Giêsu" là đã hạ Chúa xuống trình độ con người tạo vật chứ không
còn phải là Thiên Chúa sáng tạo nữa. Khi nói Đức Giêsu, đức giám mục,
đức ông, đức bà v.v. thì có gì khác nhau? Khi CS không tiêu diệt được
đức tin của người CG, chúng dụng tâm hạ bệ Chúa xuống ngang tầm vóc
con người, và biến Thiên Chúa Cứu Thế thành một lãnh tụ vô sản cũng
giống như Lenin, Che Guevara, Hồ Chí Minh v.v.. CS đã dùng các linh
mục theo thần học giải phóng tại các quốc gia Mỹ Châu Latinh rao giảng
Chúa Giêsu là một lãnh tụ cách mạng vô sản xuống thế để giải phóng các
dân tộc bị nô lệ. Hiện nay các linh mục quốc doanh VN cũng đang tiếp
tục công tác đó. Lm Trương Bá Cần viết trong Công Giáo Và Dân Tộc: "Ý
định của Thiên Chúa đã bắt đầu được thực hiện trên đất nước VN nhờ
công lao của Hồ Chủ Tịch. Nếu Hồ Chủ Tịch muốn vào nước trời, Người
(viết hoa, ghi chú của người viết) sẽ vào trước hơn ai hết". Theo cha
Trương Bá Cần thì có thể kết luận là nếu Hồ Chí Minh có khả năng tự
mình ra vào nước trời tùy tiện theo ý hắn, không cần ơn Thiên Chúa thì
qủa thật hắn có đủ năng quyền như Thiên Chúa và là Thiên Chúa rồi. Rõ
ràng Lm quốc doanh Trương Bá Cần đã nâng 'bác Hồ" của ông lên ngang
bằng Thiên Chúa. Dịch Kinh Thánh gọi Chúa Giêsu là Đức Giêsu qủa là
một âm mưu thâm sâu khó lường.
Giáo dân VN kể cả không
ít trong hàng chủ chăn xưa nay xem ra coi thường vấn đề chữ nghĩa này.
Cũng không có gì lạ, bởi vì đa số chỉ là đàn cừu Panurge. Có sách là
đọc, thấy kinh là tụng, không cần hiểu ý nghĩa gì trong kinh trong
sách. Ngay cho đến bây giờ khi Công Đồng Vatican II đã kết thúc cả gần
nửa thế kỷ, tại các nhà thờ VN, mỗi sáng chúa nhật người ta vẫn còn
nghe rang rang câu kinh "những kẻ chẳng thông công cùng hội thánh ấy
thì chẳng được rỗi linh hồn". Nếu đúng như lời kinh dậy thì các thánh
Gioan Tiền Hô, Gioakim, Anna (thân phụ và thân mẫu Đức Mẹ) chắc đã sa
hỏa ngục hết, vì các ngài chết trước khi Hội Thánh Chúa được thiết lập
trên trần gian. Đấy là chưa nói đến những người tuy không phải CG
nhưng lương tri của họ luôn tin có một đấng Tạo Hóa tối cao, suốt đời
ăn ngay ở lành, làm việc thiện. Không lẽ họ cũng sa hỏa ngục hết. Chúa
Giêsu nói với người đàn bà bị băng huyết khi bà này sờ vào tua áo của
Ngài: "Này con, cứ an tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt
9,22).
Một lời kinh sai giáo lý
tụng hàng thế kỷ nay vẫn còn tụng thì thử hỏi những câu, những chữ
trong Kinh Thánh hoặc trong sách giáo lý bị cố tình dịch sai đi với
dụng ý, ai hơi đâu để ý tìm tòi mà sửa. Cái di hại lâu dài là ở chỗ
đó.
- LÃNH ĐẠO
Không phải đến nay CSVN
mới có sáng kiến cấy người vào các giáo hội để lũng đoạn và sai khiến.
Ngay từ hồi còn mồ ma Liên Sô, CS Nga đã làm việc này rồi. Trong một
báo cáo hàng năm 1962, viên phụ tá giám đốc mật vụ KGB Grimakov viết:
"KGB đã thành công trong việc cho xâm nhập các điệp viên giỏi và có
khả năng vào nắm giữ các chức vụ cao cấp trong GH Chính Thống Giáo tại
Moscow và các giáo phận công giáo cũng như giáo hội Armenian
Gregorian. Với những điệp viên này, khẳng định đảng sẽ loại trừ được
bọn tu sĩ và các giáo hội phản động ra khỏi vị trí đương thời của
chúng".
CSVN, tên đầy tớ thông
minh của Moscow , học và áp dụng sách này ngay từ thời chúng chưa về
Hànội. Chúng đã đào tạo
những Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần v.v. từ lúc họ còn học tại Pháp. Những
ông này hiện nay là nòng cốt của một giáo hội trong một giáo hội. Hàng
ngũ giáo sĩ quốc doanh của CSVN càng ngày càng gia tăng về con số. Phương
pháp nắm các giáo phận của CSVN không khác gì lối chăn cừu của người
Âu Châu. Người chủ trại chỉ cần xử dụng dăm ba con chó săn là có thể
yên tâm thả đàn cừu hàng ngàn con ra đồng cỏ. Mỗi giáo phận VN, CS
cũng chỉ cần cài vài ba ông quốc doanh vào nắm giữ những chức vụ then
chốt là đâu vào đấy ngay.
Đồng thời với đường lối
cài đặt người, CS còn khôn khéo xử dụng tuyệt hảo chính sách "cây gậy
và củ cà rốt" chẳng thua gì Hoa Kỳ. Cây gậy luôn để trên người, nếu
ngoan ngoãn nghe lời thì sẽ được ăn. Củ cà rốt hấp dẫn nhất hiện nay
đối với nhiều vị lãnh đạo GH là được đi ngoại quốc để xin tiền. Đừng
tưởng các ngài đi là không có sứ mạng. Nhẹ nhàng lắm. Sứ mạng trọng
đại nhất khi đi ra ngoại quốc là giữ im lặng về các vấn đề ở trong
nước. Một linh mục giáo
phận Phú Cường sang đây đã nói với người viết: “Tôi nói vậy nhưng ông
đừng có đưa lên báo chí nhá. Lúc
đi chúng nó đã dặn kỹ là không được tuyên bố tuyên mẹ hay nói năng gì
….” Chỉ cần có thế, dễ ợt mà. Ra đến ngoài, các ngài chỉ cần im lặng
ngửa tay xin tiền và lên tòa giảng nói dăm ba câu vô thưởng vô phạt
khuyên con chiên bổn đạo yêu thương, tha thứ thì đã được kể là hoàn
thành xuất sắc sứ mạng rồi. Trong suốt một thời gian dài kể từ ngày
Đặng Tiểu Bình đề ra chính sách "bất kể mèo đen mèo trắng", Trung Cộng
khuyến khích và dễ dãi cho phép người dân lục địa qua Mỹ thăm thân
nhân của họ tại San Francisco. Những người dân Trung Hoa bình thường
khi ra đi, họ không biết tuyên truyền là gì, và họ cũng chẳng tuyên
truyền cho ai. Thế nhưng với đường lối này, Trung Cộng ngày nay đã
thành công trong việc chiếm được của Đài Loan khu Chinatown San
Francisco mầu mỡ. Các giám mục, linh mục VN được đi Mỹ thỏai mái. VC
không cần các ngài tuyên truyền. Sự hiện diện của các ngài tại Mỹ tự
nó đã là tuyên truyền rồi. Người tỵ nạn VN bắt đầu lo sợ ngày nay là
Chinatown San Francisco, rất có thể ngày mai sẽ là Phước-Lộc-Thọ Santa
Anna.
Việc CS cài người vào
hàng ngũ lãnh đạo của GHCG là một công tác trường kỳ. Lung lạc được
lớp chủ chăn cao niên là chuyện khó, vì đầu óc các ngài đã có sạn. Vì
thế CS quyết tâm dành quyền quyết định trong vấn đề tuyển chọn, đào
tạo, và đặt để các linh mục. Mục đích là để nắm lớp lãnh đạo trẻ trong
tương lai. Việc tuyển chọn, dĩ nhiên là CS đã có tiêu chuẩn để chọn
người. Đào tạo mới là giai đoạn chủ yếu để sàng lọc. Có thể nói tiếng
nói của cán bộ giảng huấn môn chính trị học trong chủng viện là tiếng
nói quyết định trong việc chấp thuận cho một chủng sinh bước lên chức
linh mục. Trong chương trình đào tạo để trở thành linh mục, có hai môn
học mang tính quyết định là triết học và lịch sử. Môn triết học trong
đó có triết học Marxit, và môn lịch sử có lịch sử đảng CS. Chắc chắn
trong các cuộc khảo nghiệm đều có đề tài về lý thuyết Marxit và lịch
sử đảng CSVN. Nghe nói đã có một đề tài khảo thí như sau: "Đạo CG lấy
bác ái làm đường lối truyền bá Phúc Âm. Người CS áp dụng đấu tranh
giai cấp để bành trướng chủ nghĩa. 2000 năm rồi, GHCG mới thuyết phục
được một tỷ người vào đạo. Còn chủ nghĩa CS chỉ trong vòng 50 năm đã
chinh phục được một nửa thế giới. Vậy hãy so sánh xem đường lối nào
hữu hiệu hơn, và anh chọn đường lối nảo?" Bác ái và thù hận (đấu
tranh giai cấp) là hai phạm trù đạo đức đối nghịch nhau, và là mấu
chốt của sự phân biệt giữa CG va CS. Cái khó của người chủng sinh là
phải chọn lựa giữa hai cái đối nghịch. Chỉ có thể nói "yes or no" mà
thôi. Không có lựa chon thứ ba. Nếu chọn bác ái làm con đường thực
hành chức linh mục sau này thì thí sinh đạp vỏ chuối là cái chắc. Còn
nếu chọn đấu tranh giai cấp thì hẳn dễ dàng đủ điểm để được chấm đậu.
Đây là cái bẫy CS cố tình giăng ra. Mục đích lùa các ứng viên linh mục
vào cái thế phải bán linh hồn cho qủi dữ. Một linh mục cố nín thở qua
sông đã chịu bán linh hồn cho CS rồi thì sau này còn có cái gì ông
không dám bán nữa?
Còn một cách khác nữa
CS cố tình dùng để làm hư hỏng một chủng sinh sắp bước lên chức linh
mục. Đó là việc chạy chọt đút lót để được thông qua ở cửa ải tham
nhũng. Có chuyện kể rằng một thầy sắp đến ngày chịu chức, mọi việc đã
xong xuôi, chỉ còn chờ trên thị xã OK. Nhưng quan bí thư đòi 15 cây
thì mới châu phê. Bà cố tương lai băn khoăn không biết phải giải quyết
ra sao, bèn đưa sự việc lên trình đức giám mục. Đức cha nghe qua rồi
giải quyết lẹ: "gia đình liệu đấy làm thế nào được thì làm". Coi như
đức giám mục đã bật đèn xanh. Thế là ít ngày sau bà cố tíu tít bầy
tiệc mừng con làm linh mục. Phần đức cha có lẽ ngài đọc Phúc Âm hơi
nhiều nên đã thuộc lòng cách giải quyết công việc một cách gọn nhẹ của
trấn thủ Philato. Trường hợp này, một linh mục chịu đấm ăn xôi bỏ tiền
mua chức thánh thì tham vọng thăng quan tiến chức trong GH chắc phải
còn cao.
Với các linh mục cố đấm
ăn xôi và nín thở qua sông này, GH trông chờ gì, và giáo dân được lợi
ích gì nơi họ? Nếu chức linh mục hấp dẫn qúa đến nỗi bất chấp tất cả
để được bước lên, thì chức giám mục và trên nữa còn hấp dẫn đến đâu.
CS nó rất rành tâm lý và biết rất rõ tâm lý này của từng người. Chúng
đào tạo và nắm được thành phần chủ chăn này là nắm được GH. Vấn đề hệ
trọng này nếu không đề phòng và ngăn ngừa sẽ gây ra thiệt hại cho GH
không biết đến bao giờ mới chấm dứt, ngay cả sau khi chế độ CS đã sụp
đổ. Đành rằng "lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít", nhưng nên suy
nghĩ xem "qúi hồ tinh bất qúi hồ đa" có thể đỡ thiệt hại hơn không?
KẾT LUẬN
Việc cấm đạo qua các
thời khác nhau phát sinh cách đối phó khác nhau. Cách đối phó khác
nhau đưa đến những kết qủa khác nhau. Thật vậy, thời vua chúa cấm đạo,
biện pháp thật gắt gao và tàn nhẫn, GH chỉ còn cách trốn tránh hoặc
chết. Nhưng càng phải trốn tránh giáo dân càng nung nấu tinh thần sống
đạo kiên trung. Và càng chém giết càng đưa đến những cái chết anh hùng
làm vinh danh GH.
Ngày nay cấm đạo, CS
dùng giây thòng lọng để xiết cổ GH cho nghẹt thở thôi chứ không chém
giết. Phương pháp đàn áp đặc biệt này HY Phạm Minh Mẫn mệnh danh nó là
“cơ chế xin-cho” đã làm phát sinh ra lối sống đạo bon chen. Bon chen
để mà sống, và được sống náo nhiệt như hiện nay. GH không đi tìm cái
chết, nhưng đi tìm cái sống. Và để được sống còn, GH đã phải trả gía
cho sự sống đó. Cái gía đáng gía nhất đã phải trả ra là sứ mệnh ngôn
sứ của GH. Cũng chẳng sao, miễn là được sống. Nhưng điều đáng nói ở
đây là cung cách nhiều đấng bậc biện bạch cho lối sống đạo này. Tại
Indonesia, HongKong, Tháiland, Philippines, nhiều giám mục, hồng y đã
dấn thân tranh đấu quyết liệt cho các quyền tự do dân chủ, quyền làm
người, không phải chỉ riêng cho GH, mà chung cho người dân trong nước
của các ngài. Hành động đó không ai nói các ngài làm chính trị. Nhưng
tại VN, những hành động đó nhiều đấng bậc lại phê phán là làm chính
trị, không nên dính vô. Không làm chính trị thì tốt rồi, nhưng tham
gia vào các chức vụ công quyền của CS như quốc hội, mặt trận v.v. thì
lại được coi là cách ứng xử thức thời. Người viết băn khoăn tự hỏi
không biết đó là ơn soi sáng của Thánh Linh hay là do ma đưa lối qủi
đưa đường?
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
bài cũ : tài liệu công cuộc đáu tranh của nạn nhân là giáo dân oan liên tục không ngừng nghĩ.
No comments:
Post a Comment