Nhà Báo Việt Thường

Nhà Báo Việt Thường

Tìm kiếm bài Blog than huu cua Nha Bao Việt Thường xin gõ chữ vào đây

Monday, October 31, 2011

Tội ác của tập đoàn VGCS xâm lược Miền Nam VNCH - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972


LTS-. Bằng chứng tội ác của đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược do   đại tá Việt Gian CS Nguyễn Việt Hải, chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của Tập đoàn Việt Gian Cộng sản đã chỉ huy cuộc tàn sát người nạn nhân vô tội đang chạy nạn trên Đại Lộ kinh hoàng trong Mùa Hè Đỏ lửa năm 1972.
Việt Gian Cộng Sản là tội đồ của dân tộc, gây tội ác chống con người. Đã đến lúc thế giới nhìn vào sự thật về tội ác của bọn Việt Gian CS trong 66 năm qua và chấm dứt mọi " ngoại giao kinh tế đôi bên cùng có lợi" với bọn chúng. Thế giới không thể tiếp tục bảo vệ, giúp đỡ bọn chúng để gây tội ác với nhân dân Việt Nam. Đây là một bằng chứng trong " núi tội ác" của Tập Đoàn Việt Gian Cộng Sản xâm lược Miền Nam
http://youtu.be/qPQf35K79Xo
Quảng Trị Mùa Hè Đỏ Lửa 1972Hốt Xác Đồng Bào Tử Nạn trên "Đại Lộ Kinh Hoàng"
Đây là tập tài liệu mà mọi người Việt Nam, nhất là những người rời bỏ quê hương đi tìm tìm Tự Do trên xứ ngưới cần phải đọc và thử đoán xem bọn cộng sản là loài « thú » nào ? Sau đây một vài đặc tính của bọn chúng :
Thích mầu và mùi máu : Nghe theo lệnh của quan thầy Nga Tầu, con thú có tên là "Hồ tặc" và đồng bọn đã không ngần ngại gây chiến tranh, mang bao đau thương chết chóc cho dân Việt.
Khôn như loài cáo, chúng dùng những chiêu bài mị dân như : "đánh Pháp, Chống Mỹ, cứu nước ..." Nhưng thực tế, chúng chỉ là bọn lính đánh thuê, xâm chiếm miền Nam VN cho Tầu cộng.
Cách hành xử của bọn chúng dã man hơn loài cầm thú, xả súng bắn vào những người dân vô tội đang chạy trốn chiến tranh trên " Đại Lộ kinh hoàng ", " Đấu tố", "cách mạng Văn Hoá ", v.v.
Loài « thú » này rất thù dai, ai không chấp nhận lối suy nghĩ « súc vật » của bọn chúng, thì chúng tìm đủ mọi cách trả thù. Ở trong nước thì bọn chúng bắt giam, tra tấn, hành hạ, thủ tiêu trong các trại mà bọn chúng gọi là « cải tạo»; còn những người Việt tỵ nạn CS ra hải ngoại, bọn chúng quyết đuổi theo tìm mọi cách "côn đồ" để quấy phá, dụ dỗ về VN; và khi đó bọn chúng « có đủ điều kiện để cải tạo hạng người này phải làm việc cho bọn chúng ...» !! .
TLH
 
Tội Ác của tập đoàn việt gian cộng sản
Hình Ảnh Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị 1972

 HÌNH ẢNH VỀ CUỘC DI TẢN TRÊN TỈNH LỘ 7 OAN NGHIỆT

CẢNH DỒN CỤT NGƯỜI VÀ XE BÊN BỜ SÔNG BA



Miếu tưởng niệm vong hồn những nạn nhân bị VC thảm sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng được lập nên ngay sau khi thị trấn Quảng Trị được giải vây bời QLVNCH
‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ trước khi được công binh của Việt Nam Cộng Hoà mang xe ủi qua, 
gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở một lố đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phía Quảng Trị̣, 
cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ.
(Ảnh NgyThanh, chụp ngày 1 tháng 7, 1972)
------------------------------------------------------
Lời giới thiệu: Loạt bài bên dưới do ba người - nhà văn Giao Chỉ, ký giả và phóng viên nhiếp ảnh NgyThanh, và cá nhân tôi, Trùng Dương - viết từ ba góc nhìn về ba thời điểm khác nhau, song cùng một chủ đề:

Đại Lộ Kinh Hoàng
”, nơi gần 2.000 con người chạy loạn đã bị Cộng quân pháo kích chết thê thảm, không bút nào tả siết được, vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi Cộng quân từ phía bắc tràn qua sông Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị, trắng trợn vi phạm Hiệp Định Ngừng Chiến Genève 1954.

Nhân chứng sống, cựu Trung sĩ Phan Văn Châu, người đã sống và chứng kiến tận mắt cảnh đồng bào bị pháo kích Cộng sản tàn sát trên cái mà phóng viên chiến trường của nhật báo Sóng Thần, NgyThanh, đã đặt tên là "Đại Lộ Kinh Hoàng" sau khi anh và đồng nghiệp Đoàn Kế Tường là hai người đầu tiên đật chân lên đọan đường này hai tháng sau cuộc tàn sát, và Chương trình hốt xác đồng bào tử nạn trên ĐLKH do nhật báo Sóng Thần phát động
 - (Trùng Dương).
---------------
Nhân chứng qua đêm
(Giao Chỉ)
Khi đi tìm nhân chứng của một chiến trường hết sức oan nghiệt và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy xác người trên Quốc Lộ số 1.

Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù, đại úy Phan Nhật Nam đã viết “Mùa hè đỏ lửa”. Tác phẩm đem vinh quang cho tác giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa” đã gắn liền vào tên tuổi Phan Nhật Nam.

Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè cháy” của đại tá pháo binh “quân đội nhân dân” viết về trận pháo kích của trung đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây số giữa con sông Thạch Hãn và Mỹ Chánh trở thành “Ðại Lộ Kinh Hoàng”.

Chúng tôi vẫn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường của trận thảm sát mùa hè năm 1972. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng.

Anh phóng viên của bộ thông tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên Washington, D.C. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo Lê Thiệp có đi theo trên Quốc Lộ 1 qua lối này. Năm 2005 tôi có nhân dịp gặp ông Thiệp tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên “Ðại lộ Kinh Hoàng” thật hay. Câu chuyện dừng tại đó.
Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê Huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của Trung tá Vũ là họa sĩ Hương, Alaska, có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn. Nhưng ông Vũ nay không còn nữa.

Ðại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng trị thời kỳ 1972 đã nói rằng: “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu. Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại một đêm giữa các xác chết.” Sau cùng nhờ ông Hà Mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu, năm nay 68 tuổi, quả thực là một người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 1972 và trận 1975.

Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh: nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.

Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng một đứa cháu, dẫn vợ có bầu với ba đứa con nhỏ, năm một, 6, 7, và 8 tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ bắc của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước một đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo một chiếc xe gỗ hai bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy, chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng một ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được một lúc.Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.

Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ.

Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại một cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị.

Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ mang bầu đã dẫn ba đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.

Vợ con dắt díu nhau đi suốt một ngày một đêm về đến Mỹ Chánh, rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm ba ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và đã có gia đình, hiện cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.

Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 1972 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời.
 “Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu,” 
ông Châu nói. 
Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút.” 
Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên sáu con. Bà thứ hai ba con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả ba cháu sang đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có một cháu, năm nay cháu 24 tuổi rồi. Bà sau này có một con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không?
 “Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời,” ông Châu nói, “Cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ bấy giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác? Rồi chôn ở đâu? Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào.”

Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động,” ông Châu nói. “Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Ðứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.

Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “
Quê ở Nhan Biều, bờ bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại Quân đoàn I . Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA. Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau ba vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác, đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có một ngày một đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”
Ðó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng.

Ông có biết ai đặt tên Ðại Lộ Kinh Hoàng.” “ Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ.”

Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra ai là người đặt tên …

(Giao Chỉ)
----------------------------
"Đại Lộ Kinh Hoàng"
NgyThanh
Năm ấy tôi 23 tuổi, mặc đồ lính mới được một năm, chịu trách nhiệm phòng nhiếp ảnh của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị, KBC 3463, đóng tại bờ biển Thanh Bình, Đà Nẵng. Với số tuổi oắt con của thời chiến sau khi vừa rời quân trường chỉ một năm, tôi còn ngu ngốc lắm, lại ham vui, và hiếu thắng, ngày nào không ra mặt trận để chiều về làm bản tin hành quân, là một hổ thẹn với tất cả đạo quân phóng viên nằm tại Huế, một thành phố lỏng lẻo vì phần lớn thường dân và vợ con lính đã chạy vào Đà Nẵng, sau kinh nghiệm “di tản chiến thuật” khỏi Quảng Trị Đông Hà.

Bấy giờ, phía Nhảy Dù vẫn giữ cánh trái giữa Quốc Lộ 1 trải dài lên phía Động Ông Đô và căn cứ Barbara, đánh cuốn chiếu ra từ sông Mỹ Chánh. Thủy Quân Lục Chiến cặp sườn QL1 bên trái giăng hàng ngang theo sông Mỹ Chánh ra tới các làng Mỹ Thủy, Gia Đẳng ở trên bờ biển, cùng nhắm hướng tây bắc.

Hôm 1-7-1972 , đám phóng viên chiến trường "ăn cơm tháng ở quán ăn trước khách sạn Hương Giang Huế" không đi tập trung như mọi ngày, mà tản mác theo các đơn vị Nhảy Dù và TQLC bố phòng hơn là theo các mũi dùi tấn công chính trên đường đánh về Quảng Trị. Cái ngày rất dễ nhớ vì vừa chẵn 2 tháng sau khi ông anh họ tôi ném trái CBU-55 xuống cầu Đông Hà để diệt sống đoàn xe tăng T-54 đang qua cầu để tấn công phía sau lưng của quân Việt Nam Cộng Hoà đang "di tản chiến thuật", bỏ ngỏ phần đất tỉnh Quảng Trị, và tái bố trí ở bờ sông Mỹ Chánh. Hôm ấy tôi đi chung với Đoàn Kế Tường, cả hai chúng tôi là phóng viên chiến trường của báo Sóng Thần. Bên cạnh tình bạn, Đoàn Kế Tường là người Quảng Trị, anh cũng là quân nhân của một đơn vị pháo binh Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nên rành rẻ đường đi nước bước trong thành phố, nếu chúng tôi có may mắn lọt vào được thành phố tái chiếm trong tư cách là phóng viên đầu tiên -- nhưng chuyện ấy sau mới xẩy ra trên đường Lê Huấn.

Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng và không có lính trấn thủ khi chúng tôi đến: những mũi dùi tấn công của Nhảy Dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên quá sông Trường Phước. Bến Đá bấy giờ có hai cầu. Cầu xe hơi trên QL1 bị phá sập, hoàn toàn không qua được. Chiếc cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gảy gục đoạn giữa cắm xuống sông thành hình chữ V, khu đất đầu cầu do quân VNCH trấn giữ trước đó đã được cài nhiều mìn chống chiến xa.

Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẩn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gẫy qua bên bờ bắc, len lách giữa đám mìn chống chiến xa, để quay trở lại QL1.

Trước mắt chúng tôi, ngay trên bề mặt QL1, là xác xe chiếc ngược chiếc ngang, phần lớn giở mui không biết vì lý do gì. Trong nhiều xe cứu thương đã bị bắn cháy nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai bên hông, chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở và thấy xác thương binh chết nằm chết ngồi trong đó, mùi tử khí đã dịu thành mùi thối, thay vì mùi tanh nồng của xác người như khi mới chết ít hơn hai tuần. Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát hai bên đường, bãi phía biển có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát, người ta có khuynh hướng chạy ra phía đông là khu vực có thể có người tiếp cứu mình, trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai sinh sống. Trên bãi cát nầy chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ em, xác quân nhân và xác thường dân, cảnh sát. Nhiều xác úp mặt chồng lên nhau, có lẽ bị bắn chết khi đaang chạy tới để thoát hiểm và bị bắn từ sau lưng.

Vì không có xe cộ lưu thông, hai chúng tôi luẩn quẩn dọc đoạn đường xác người nầy trong vòng khoảng non cây số. Chúng tôi đã chụp (bằng phim) rất nhiều ảnh của đoạn quốc lộ nầy, khi công binh VNCH chưa bắc cầu dã chiến qua sông Bến Đá, nên hình chúng tôi chụp còn nguyên vẹn bãi chiến trường. Tấm ảnh duy nhất còn lại hiện được lưu giữ tại 
http://www.pbase.com/ngythanh/image/78971287
 

Vào xế trưa, công binh bắc xong cầu, và mang xe ủi qua, gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở một lối đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phía Quảng Trị, cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ về. Do đó, ngoài hình ảnh của chúng tôi, những hình chụp sau khi xe ủi qua, đã không còn cảnh nguyên thủy của nét kinh hoàng.

Buổi tối về tới Huế, như mọi khi, tôi gọi cho anh Đỗ Quý Toàn bên Phú Nhuận để nhờ anh ghi lại tin tức về hoạt động của chúng tôi trong ngày, để sau đó anh ấy chuyển cho anh Đỗ Ngọc Yến, là người ngồi cạnh anh Uyên Thao, tổng thư ký tòa soạn. và các anh Trương Cam Vĩnh, Đường Thiên Lý để làm tin và chọn tin. Anh Yến vẫn chuyển tin của chúng tôi tới anh UT như thế mỗi ngày. "Đại Lộ Kinh Hoàng" là cái tên tôi chọn làm đề tựa bài viết ngày hôm ấy. Chọn "Đại Lộ Kinh Hoàng" thật ra cũng chỉ do một phút ngẩu hứng thôi, như một vế cho câu đối "Con Phố Buồn Thiu" (La rue sans joie) mà Bernard Falls đặt cho hương lộ 555 chạy dọc bờ biển Quảng Trị, cách đó vài cây số, trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương Lần thứ nhất, 1946-54.

Vài tuần sau, chị chủ nhiệm Trùng Dương và anh chị em Sóng Thần tổ chức chiến dịch thu lượm xác người trên "Đại Lộ Kinh Hoàng". Tòa báo bỏ chi phí ra làm việc nầy.

Đích thân chủ nhiệm từ Saigon ra ăn chay nằm đất với chúng tôi, hàng ngày kết hợp với anh Nguyễn Kinh Châu, trưởng văn phòng đại diện Sóng Thần Huế, và các thân hữu, chúng tôi liên tục tới hiện trường thu nhặt xác chết gói vào từng bao nylon, trước khi bỏ vào quan tài bằng gỗ thô sơ, mai táng ở một khu đất xin được ở phía đông của QL1, ở làng Mỹ Chánh. Khi làm việc nầy, chúng tôi không treo băng dựng bảng để khoe công. Tấm bảng thật lớn cắm ở đầu cầu bên trái sau khi qua khỏi cầu Bến Đá (trước ngày mất nước) là do lệnh của Tổng thống Thiệu. Bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng" là chữ của tôi, nhưng bên dưới tấm bảng ghi là "Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu".

Những chuyện vụn vặt quanh cái tên ĐLKH đã cũ quá rồi, tôi không nhớ hết. Anh Uyên Thao còn sống. Anh Đỗ Quý Toàn còn sống. Ký giả Anh Điển còn sống. Chị Trùng Dương còn sống. Đoàn Kế Tường còn sống (đang làm báo Công An TP HCM). Tôi quý anh [Giao Chỉ, trong nhóm thực hiện phim tài liệu Quảng Trị] nên ghi lại một ít chi tiết để anh đọc chơi, nhưng nếu có ai muốn nhận bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng" là của họ, thì cứ giao cho họ, anh ạ. Mất nước, nhưng chúng ta còn nhiều việc phải làm hơn là tranh nhau cái chức vị "tác giả" của bốn chữ sáo rỗng ấy.

Houston, Tháng 9, 2009
Ngy Thanh
--------------------------------
Hốt xác đồng bào
Trùng Dương
Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa với trụ sở đặt tại San Jose, California, qua nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc, vừa chuyển đến chúng tôi lời mời tham dự vào việc thực hiện cuốn phim tài liệu về trận phản công tái chiếm Quảng Trị của quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Hè 1972. Đây là một trong một loạt phim tài liệu nhằm viết lại lịch sử 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa trong đó, theo Viện BTTN&VNCH, loạt phim Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa gồm bốn DVD, tổng cộng 8 giờ, được coi là “sản phẩm tiêu biểu".

Ông Lộc cho biết Viện BTTN&VNCH hiện đang xúc tiến thực hiện một bộ phim tài liệu về trận Quảng Trị 1972, còn gọi là "Mùa Hè Đỏ Lửa", khi Bắc quân đem quân và chiến xa tràn qua Vùng Phi Quân Sự tại vĩ tuyến 17, trắng trợn vi phạm Hiệp Định Geneve 1954, xâm chiếm Quảng Trị vào tháng 3-1972, song bị quân đội VNCH đẩy lui sáu tháng sau đó.

"Trong chiến tranh VN có ba trận đánh quy mô cần quan tâm. Đó là trận Mậu Thân, Hoa Kỳ gọi là Tet Offensive 1968. Trận thứ hai là trận Quảng Trị 1972, Hoa Kỳ gọi là Easter Offensive. Trận thứ ba là 30-4-1975," Ông Lộc cho biết trong lá thư gửi tới thân hữu. "Lịch sử chiến tranh Việt Nam cần có một phim tài liệu về Quảng Trị. Ðây sẽ là phim đầu tiên."

Được biết cuốn phim tài liệu về Quảng Trị sẽ gồm hai đĩa. Ðĩa thứ nhất dành cho thời gian từ ngày lui binh sau khi thất thủ Đông Hà - Quảng Trị từ cuối tháng 3 đến đầu ngày 1-5-1972; và đĩa thứ hai dành cho thời gian phản công từ tháng 5 đến tháng 9-1972. Bộ phim Quảng Trị là một phần của chương trình sản xuất các tài liệu song ngữ của Viện BTTN&VNCH để phổ biến khắp thế giới và dành cho thế hệ tương lai.

Chúng tôi được ông Vũ Văn Lộc mời đóng góp vì những bài báo của các phóng viên chiến trường của nhật báo Sóng Thần tường thuật tại chỗ về Mùa Hè Đỏ Lửa, mà một trong những tác giả của những bài tường thuật bấy giờ hiện có mặt tại Hoa Kỳ, là NgyThanh, có thể đóng góp cho dự án phim tài liệu với tư cách một nhân chứng.

Nhật Báo Sóng Thần, do tôi làm chủ nhiệm và chủ bút, cố nhà văn nhà báo Chu Tử làm chủ biên và ký giả Uyên Thao, hiện định cư tại Virginia, làm tổng thư ký, ngoài phần vụ thông tin, đã có những đóng góp ngoài nghề nghiệp mà chúng tôi, vì tính chất nhân đạo của những việc này, ít khi đề cập tới.

Trước hết, về mặt thông tin: Khi chiến trận bùng nổ, văn phòng đại diện Sóng Thần Quảng Trị do anh Nguyễn Quý coi sóc phải di tản vào Huế, sáp nhập với văn phòng đại diện Sóng Thần Huế do anh Nguyễn Kinh Châu điều hành, cộng với NgyThanh đặc phái viên Sóng Thần Quân Khu I từ Đà Nẵng ra tăng cường. Kết quả là nhờ số nhân sự đông đảo của văn phòng ba tỉnh nhập lại, chúng tôi may mắn có đủ lực lượng để bao sân nhiều lãnh vực. Đặc biệt là nhờ văn phòng trưởng Nguyễn Kinh Châu, vốn là một "thổ công" địa phương, có nhiều móc nối quen biết từ cấp tỉnh trưởng trở xuống; Đoàn Kế Tường, quân nhân đồng thời cộng tác với văn phòng Sóng Thần Quảng Trị, vì “đánh mất” Quảng Trị nên ngày nào cũng bám theo các mũi dùi tái chiếm với lời thề sẽ là nhà báo đầu tiên đặt chân trở lại thành phố thân yêu; Trần Tường Trình theo chân Sư Đoàn 1 kiên cường trấn thủ Bastone, Birmingham và Tà Rầu ở cạnh sườn phía tây; và Ngy Thanh, phóng viên và cũng là một nhiếp ảnh viên xông xáo, ra bám trụ tại Huế để hằng ngày theo các mũi tiền quân của QLVNCH săn tin. Trong khi nhiều ký giả trong nước cũng như ngoại quốc, lúc ấy vì bất ngờ, chưa kịp trở tay, thì Sóng Thần đã có tin cập nhật hàng ngày do các đặc phái viên “nằm vùng” của các văn phòng này gửi về. Do đấy, báo Sóng Thần có số bán lớn nhất trong thời kỳ này.

Song có lẽ một trong những điều đáng nói hơn cả, và cũng ít người biết tới, là chương trình hốt xác của ngót 2.000 đồng bào thiệt mạng vì pháo kích lẫn bom bay đạn lạc trên đoạn Quốc lộ 1 từ cầu Bến Đá tới cầu Trường Phước – đoạn đường máu mà NgyThanh trong bài tường thuật qua điện thoại tối 1-7-1972 đã gọi bằng tên "Đại Lộ Kinh Hoàng", và bốn chữ đó trở thành tên của đoạn quốc lộ của Tử Thần này.

Ngay sau bài tường thuật tại chỗ và những hình ảnh do NgyThanh chụp cảnh máu đổ thịt rơi của các nạn nhân, anh chị em Sóng Thần chúng tôi ở mỗi nơi không hẹn mà gặp trong tâm tư dằn vặt về vô số xác chết phơi nắng dầm mưa trên Đại Lộ Kinh Hoàng. Hồi ấy Nhật Báo Sóng Thần đang thực hiện chương trình "Sống Một Mái Nhà" và tòa soạn ủy thác việc trông coi cho Vũ Ngọc Long, một sinh viên trẻ tới với nhóm ST từ khi còn phôi thai. Hàng tuần hay tháng, tôi không còn nhớ rõ, Long đều đặn dẫn một số sinh viên học sinh tình nguyện đi xây lại nhà cho một gia đình nghèo ở quanh thành phố Saigon. Khi chúng tôi ngồi lại bàn với nhau về việc phải làm một cái gì cho các nạn nhân chiến cuộc này, ký giả Đường Thiên Lý đề nghị quyên tiền để giúp hốt xác nạn nhân và đặt tên cho chương trình này là "Thác Một Nấm Mồ", có lẽ là cho có được tính liên tục với chương trình do Long trông coi. Trong khí đó ngoài miền Trung, không hẹn mà Nguyễn Kinh Châu cũng bàn bạc với cố bác sĩ Phạm Văn Lương, người trông coi văn phòng Sóng Thần Đà Nẵng. Hai anh đồng ý nhân danh tập thể Sóng Thần để tiến hành thu nhặt xác, và anh Lương gọi vào Saigon đúng lúc chúng tôi cũng vừa bàn xong, và định gọi ra xin quyết định của các văn phòng địa phương.

Máu chảy ruột mềm, đáp ứng của độc giả đối với lời kêu gọi đóng góp của Sóng Thần cho chương trình "Thác Một Nấm Mồ" vừa mau mắn vừa đông đảo, cho thấy tính nhân bản và tình thương rất cao của người Việt miền Nam đối với các đồng bào ruột thịt miền Trung thiếu may mắn chết mà chưa yên, thân xác còn phơi nắng dầm sương ròng rã đã nhiều tháng trời, khiến không ai là không khỏi đau xót. Tôi được anh chị em trong nhóm chủ trương tờ báo đề cử đem gói tiền đầu tiên góp được ra Huế trao anh Nguyễn Kinh Châu để xúc tiến chương trình hốt xác.

Tôi không bao giờ quên được một tuần lễ ở Huế dạo ấy. Hồi ấy, tôi không nhớ đích xác tháng nào, quân Cộng hoà đã lấy lại được phần đất phía dưới Quảng Trị, nơi có đoạn đường có hỗn danh là Đại Lộ Kinh Hoàng, song chưa mở ra cho dân chúng vào vì chiến cuộc vẫn còn diễn ra, với đạn pháo tầm xa 130 ly của quân Cộng sản vẫn thỉnh thoảng rót xuống vùng này từ trên dãy Trường Sơn. Và hễ mỗi lần có pháo kích từ núi xuống là sau đó không bao lâu ta có thể nghe tiếng rung chuyển trời đất của máy bay bỏ bom B-52 dội bom phản kích.

Qua sự dàn xếp của anh Nguyễn Kinh Châu, chúng tôi – gồm anh Châu, NgyThanh, tôi, và cả chị Châu cũng không bỏ lỡ dịp xin đi theo trong một, hai chuyến đầu – vào được khúc đường này, mướn đem theo mấy người phu chuyên nghiệp cải táng. Đối với các ông thợ này – tôi để ý thường họ đem theo vài chai rượu đế, vừa để uống vừa để khử trùng – hốt xác không phải là việc xa lạ: Họ đã trở thành các tay chuyên nghề sau khi phía Cộng Sản chôn sống quá nhiều người trong vụ Tết Mậu Thân 1968 để họ thực hành việc hốt xác của nhiều ngàn người bị chôn trong những hố tập thể.

Ngày đầu nhặt xác dọc hai bên Đại Lộ Kinh Hoàng, tôi như đi trong một cơn mộng dữ, không uống rượu mà như say, bước đi mà chân như không chạm đất, giữa một bầu không khí đầy mùi tử khí trong một khung cảnh với nhiều chiếc xe, kể cả chiến xa, cháy rụi nằm ngang dọc đó đây, áo quần đồ đạc vương vãi bên những xác người đã rữa nát nằm chết đủ kiểu la liệt, trong đó có nhiều đàn bà và trẻ con.

Trong khi NgyThanh bấm máy không ngừng, tôi đi quan sát những xác người. Một trong những hình ảnh tôi nhớ nhất, tới tận bây giờ, là cảnh một người mặc đồ lính đã rách nát, nằm xoãi hai chân hai tay, đầu gối trên một khúc cây gẫy, khuôn mặt gần như chỉ còn xương với tí thịt rữa còn vương dính lại, hai hốc mắt là hai cái lỗ đen ngước lên như chất vấn trời cao. Tự dưng tôi nghĩ anh ta đã chỉ bị thương, chưa chết, đã cố lết tới đây nằm vật ra, mặt ngửa lên trời, và chết dần. Tôi tự hỏi anh đã nghĩ gì trước khi trút hơi thở cuối cùng. Mẹ cha, anh chị em, vợ con hay người tình ở đâu? Lớn lên trong chiến tranh và sống phần lớn ở Sàigòn, thỉnh thoảng có thấy người ta chết vì súng đạn, vì pháo kích, nhưng đây là lần đầu tôi thấy nhiều người chết như vậy, và chết đủ kiểu. Tôi có mô tả những cảnh này trong bài phóng sự đăng làm nhiều kỳ trên báo Sóng Thần, như một báo cáo lại với những nhà hảo tâm đã mau mắn đóng góp tiền bạc để chúng tôi thực hiện công tác nhân đạo này.

Những ngày kế đó chúng tôi hàng ngày, sau khi ăn sáng rất thanh đạm, chất nhau lên một cái xe cam-nhông nhà binh do anh Châu điều đình mượn được, cùng với mấy người thợ bốc xác, trở lại Đại Lộ Kinh Hoàng. Có lúc tôi ngồi xem mấy người thợ bốc xác làm việc, vừa nghe họ kể chuyện hồi hốt xác nạn nhân Tết Mậu Thân, như thể những gì đang diễn ra chưa đủ kinh hoàng bằng. Nào là có linh hồn nọ, linh hồn kia về than còn thiếu bàn tay, khúc xương, cái sọ, vv. Thỉnh thoảng có ông thợ ngưng tay lôi chai rượu đế ra nốc một ngụm. Vì họ làm việc bằng tay trần, không có bao tay, nên ruợu cũng còn được dùng để mấy ông thợ rửa tay trước khi ăn trưa.

Những gì có thể giúp để nhận diện xác chết, như thẻ căn cước, hay một món đồ đặc biệt nào đó tìm thấy gần xác đều được anh Châu ghi lại trong sổ tay, bên cạnh số của xác đã được ghi trên bọc plastic đựng xác. Tôi xem và ghi chép. Khi nào mỏi mệt, tôi ra đứng ngoài lộ nhìn lên rặng núi Trường Sơn, nhớ lại những mẩu chuyện nhà văn hồi chánh Xuân Vũ kể trong Đường Đi Không Đến, tự hỏi sao con người ta ở đâu không chịu ở yên đấy để xây dựng xã hội, phát triển kinh tế, vun sới đời sống và con người, như các nước khác trong vùng Đông Nam Á này? Sao gây ra chiến tranh? để chi? được chi? Rồi tôi ngóng về phía bắc lắng nghe tiếng súng vẳng lại từ phía Quảng Trị, nơi quân Cộng Hòa đang đánh chiếm lại từng thước đất đã bị Cộng quân chiếm đóng, và thầm cầu nguyện cho những người lính Cộng hoà.

Có lần, chúng tôi đang làm việc thì nghe mấy người lính Cộng Hòa gọi nhau ơi ới, và vẫy gọi cả chúng tôi. Anh Châu ra lệnh cho mọi người ngưng tay chạy tìm chỗ ẩn náu vì pháo kích từ trên Trường Sơn bắt đầu rót xuống quanh chỗ chúng tôi. Ai đó kéo tôi xuống một hố bom bảo bám chặt vào thành hố bằng cát, đã hẳn là dù vậy vẫn thấy mình từ từ tuột xuống vì cát rời. Tôi đang thắc mắc sao không xuống hẳn lòng hố cho chắc ăn thì có người chỉ cho tôi thấy một trái bom bi chưa nổ ở dưới lòng hố.

Mỗi chuyến xe chúng tôi chở xác về xếp trong ngôi trường của thị trấn Mỹ Chánh, nhiều người có thân nhân trong đám nạn nhân trên Đại Lộ Kinh Hoàng chờ chực sẵn ở đó xúm lại tíu tít hỏi thăm, mặt ai cũng bơ phờ, thất thần, thấy thương tâm hơn cả người đã chết nay không còn gì để phải vương vấn nữa. Trong một cuộc điện đàm gần đây với NgyThanh, anh Châu cho biết con số đích xác của những xác người đã được hốt về từ Đại Lộ Kinh Hoàng năm ấy: 1.841 xác. Một ngàn tám trăm bốn mươi mốt xác người, anh nói không một giây do dự hồi tưởng, như thể con số ấy đã được ghi tạc trên phiến đá của ký ức anh từ 37 năm qua chỉ chờ dịp bật ra khi được hỏi tới! Những xác người bất hạnh này đã được ch ôn tại một khu đất sau lưng trường tiểu học Phong Nguyên ở Mỹ Chánh, được biết tới với tên Nghĩa trang Đồng bào Chiến nạn Quảng Trị.

Cứ vậy mà một tuần trôi qua đến ngày tôi phải về lại Saigòn, trước sự bịn rịn của anh chị Châu. Tôi mất ngủ nhiều ngày sau đó, vì sợ thì ít mà vì những gì đã thấy đã khiến tôi như tê dại hẳn đi – cảm giác tê dại mà tôi lại được biết tới vào ba năm sau đó, ngày 30 tháng 4, năm 1975 ...

Vì nhận thấy đây là một sinh hoạt có tính cách nhân đạo, nếu đưa vào phim có thể làm loãng đi chủ đề của phim, đó là về cuộc chiến đấu dũng cảm của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà nhằm tái chiếm lại Quảng Trị, nên chị em chúng tôi bàn nhau viết bài này để ghi lại một sinh hoạt mà nếu không ghi lại cho các thế hệ tới thì sẽ bị mai một đi, cùng với bao nhiêu câu chuyện khác của một thời Việt Nam Cộng Hoà nhân bản, đầy tình người, dù những hạn chế không tránh được của một chế độ vừa lo phát triển vừa phải lo chống lại tham vọng của những người quyết tâm áp đặt chủ nghĩa Cộng sản phi nhân lên phần đất tự do cuối cùng của Việt Nam.

Bài này cũng xin được coi là thêm một lần nữa, tri ơn những vị hảo tâm đã đóng góp để chương trình "Thác Một Nấm Mồ" được hình thành cách đây đã gần 40 năm. Đồng thời như một nén hương tưởng niệm những người đã bỏ mạng trên Đại Lộ Kinh Hoàng, xác phơi nắng mưa tới hơn hai tháng trời trước khi chúng tôi xin được phép vào tới nơi để làm cái việc hốt xác.

Oregon, Tháng 9, 2009).
Trùng Dương
-----------------------------
Bảy tháng giữa xác người
(NgyThanh ghi lại, các chi tiết dựa theo buổi nói chuyện qua điện thoại với Nguyễn Kinh Châu từ quận Bình Thạnh, Saigon vào tháng 10-2009)
Ba mươi bảy năm sau khi cùng nhau cầm bao nylon lom khom lội vào vùng chiến sự để thu nhặt xác đồng bào bị thảm sát bởi đạn của Sư Đoàn Pháo Bông Lau mà cứ như lén lút vào kho tội ác của Cộng sản để đánh cắp, câu đầu tiên anh Nguyễn Kinh Châu nhắc đi nhắc lại với tôi (như cứ sợ chính mình cũng sai sót) là tên đầy đủ của nghĩa trang mà nhật báo ST đã mai táng 1,841 xác, “Ngĩa Trang Đồng Bào Chiến Nạn Quảng Trị̣ do nhật báo Sóng Thần và thân hữu phụng lập”.

Một lần đi hốt xác đồng bào bị Việt Cộng chôn sống trong tết Mậu Thân ở Huế, và lần thứ nhì hốt xác đồng bào bị Việt Cộng tàn sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị, những hình ảnh ghê rợn đã khắc chạm thật sâu vào ký ức anh Châu, như một thứ đền tưởng niệm Cánh Đồng Chết của nạn nhân Pol Pot ở Cam-Pu-Chea – “trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Trả lời câu hỏi của tôi, anh Nguyễn Kinh Châu nhắc lại con số 1,841 xác nạn nhân một cách dễ dàng như không cần khui một gói thuốc lá để biết trong đó có 20 điếu. Tôi hỏi tiếp, làm sao anh nhớ được chính xác như thế, anh tâm sự, “Làm sao không, có ngày nào là áo quần không thấm mùi hôi của xác chết, có xác nào không là xác đồng bào, anh em?”

Khi mới bắt tay vào việc, chính quyền và quân đội chưa cho phép thường dân qua sông Mỹ Chánh vì vấn đề an ninh (sợ Việt Cộng trà trộn để hoạt động) và vì vấn đề an toàn (sợ đạn pháo binh Việt Cộng bắn trúng làm chết nhóm người đi lượm xác đồng loại). Vấn đề mang một nhóm thường dân vượt qua phòng tuyến quân sự Mỹ Chánh để tìm và thu nhặt xác là chuyện chưa từng xảy ra trước đây trong chiến tranh Đông Dương. Mặt khác, anh em báo ST ngại một khi đăng lời kêu gọi xin độc giả tiếp tay đóng góp, tiền tới tay rồi mà lỡ xác đồng bào lấy về không được sẽ bị mang tiếng lừa phỉnh, nên anh Châu hội ý với anh em phóng viên ST đang có mặt tại Huế, rồi vào Đà Nẵng bàn thêm với bác sĩ Phạm Văn Lương. Kết quả: chúng tôi quyết định thử nghiệm trước bằng cách tự lực. Anh Châu đã mang chiếc xe gắn máy Honda 68 tới xin cầm cho một thân hữu là anh Huỳnh Văn Phúc, chủ tiệm vàng Phúc Ân kiêm tổng thư ký Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên, lấy 50 ngàn đồng để làm vốn liếng khởi công. Ngạc nhiên thấy anh Châu cầm xe, anh Phúc hỏi dồn, nên đã biết sự thật là anh Châu cần tiền để trao cho thầy Thích Đức Tâm ở chùa Pháp Hải bên cồn Hến đóng quan tài để ra Quảng Trị lượm xác đồng bào bị pháo chết. Biết việc chúng tôi làm như thế, anh Phúc bảo anh Châu cứ mang xe về, và cho anh chị em ST mượn 50 ngàn tiền mặt, một số tiền không nhỏ lúc bấy giờ, để khởi công. Bên cạnh đó, anh em ST vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 tiếp xúc với Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Chỉ huy trưởng, thiếu tá Nguyễn văn Cơ đã cho nhóm Sóng Thần 200 bao nylon loại dùng để tẩm liệm quân nhân tử trận. Ngoài ra, nhóm mượn được một xe GMC của Tiểu Khu Thừa Thiên làm phương tiện vận chuyển đoàn hốt xác và xác hốt được. Về sau khi số xác lượm được tăng lên tới con số gần hai ngàn, anh Cơ vẫn cung cấp đầy đủ để gói ghém tử thi đồng bào, đồng thời phía Tiểu Khu Thừa Thiên tăng cường cho mượn thêm một xe GMC nữa, và phía Tiểu Khu Quảng Trị cho mượn 2 GMC khác, để di chuyển xác chết.

Sóng Thần đã tiến hành hốt xác tất cả 3 đợt. Khi chị chủ nhiệm Trùng Dương từ tòa soạn ra tham dự để ăn đạn pháo kích là đợt một. Đợt nầy đoàn hốt xác có 4 tổ, mỗi tổ 4 người, thu được trên 800 xác. Về sau đoàn hốt xác tăng lên thành 7 tổ. Sợ mùa mưa tới xác đồng bào bị vữa và trôi hết phần thịt, chúng tôi đã tăng gấp đôi số nhân công để rút ngắn thời gian.

Khởi đầu, thầy Đức Tâm thuê đóng và giao cho đoàn 20 quan tài để mang theo, xem thử đủ thiếu thế nào. Lên đường, anh em ST chúng tôi chỉ dám cầu mong lượm được tới 20 xác như mong muốn của thầy Đức Tâm, vì khu vực giữa hai cầu Bến Đá và Trường Phước là đụn cát trắng không nhà cửa cây cối, hễ thấy bóng người di chuyển là tiền sát viên Việt Cộng gọi pháo tầm xa từ Trường Sơn bắn xuống. Kết quả của ngày đầu thật bất ngờ với con số 96 xác. 20 xác đầu tiên được xếp vào quan tài, phần xác còn lại gói tạm vào bao nylon mang về đặt trong các phòng học của trường Mỹ Chánh.

Dạo 1968, anh Nguyễn Kinh Châu là ký giả đã theo chân đoàn người đi khai quật các hố chôn tập thể và đã có loạt hình chạy 8 cột bề ngang trên báo Hòa Bình tường thuật tội ác rùng rợn nầy. Cũng nhờ quen biết cũ từ 4 năm về trước, lần nầy đề xuất việc đi lượm xác, anh Châu đã quay lại Phú Thứ để tìm gặp và thuyết phục các người chuyên về di dời xác chết bốn năm trước, sau Tết Mậu Thân, để họ bằg lòng tham gia công việc nghĩa tử dưới làn đạn pháo của Sư Đoàn Pháo Bông Lau. Đúng là Việt Cộng đã dành cho những người nầy những việc làm có một không hai trong lịch sử tội ác chiến tranh. Nhưng vì lãnh thổ Quảng Trị vẫn còn giao tranh và bom đạn, nên những người phu chỉ bằng lòng nhận lời với chi phí 1.600 đồng mỗi ngày, so với giá thuê mướn làm công nhật ở thành phố Huế lúc bấy giờ là 100 đồng/ngày, và giá vàng 1.600 đồng một chỉ. Sở dĩ giá cả cao như thế mà nhóm ST phải chấp nhận vì khu vực “Đại Lộ Kinh Hoàng” vẫn còn rất kinh hoàng, phu hốt xác ra đó để thu lượm xác không những phải làm việc giữa điều kiện mất vệ sinh giữa những xác chết, mà còn phải đưa lưng đội đạn pháo từ Trường Sơn bắn xuống. Những tay làm báo chúng tôi vì nghiệp dĩ của mình mà lăn lưng ra chốn tên bay đạn lạc, nhưng người dân họ có lý của họ, nhất là khi phải đổi bát máu lấy bát cơm để nuôi thân và nuôi gia đình. Khi tới bãi xác người, những phu lượm xác nầy mỗi người đều mang theo một lọ mắm ruốc. Họ đã lấy ngón tay chấm mắm ruốc bôi lên mũi, dùng mùi thối của mắm để mong át đi mùi thối của xác chết, và cũng để đánh lừa khứu giác của mình.

Sau những ngày đầu vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đoàn hốt xác buổi tối về hay tập trung ở nhà từ đường của chị Tôn Nữ Mộng Nhiên ở số 100 đường thuận An, là nơi “đóng đô” của đám phóng viên ST trẻ Trần Tường Trình, Đoàn Kế Tường và NgyThanh. Nghe đám nhà báo bàn bạc chuyện lượm xác, ban đầu hai cô chủ nhà là chị Mộng Nhiên và chị Lẫm góp ý. Từ từ bén chuyện, hai cô tình nguyện tham dự trò chơi với đạn pháo kích. Thế là đoàn hốt xác có thêm hai khuôn mặt hoàng phái, đảm nhiệm việc ghi chép sổ sách và ghi số mỗi xác, cùng những giấy tờ hay di vật gì chúng tôi lấy được trên thi thể của họ̣. Những vật dụng và tư trang cá nhân ấy được cho vào bao nylon có ghi số trùng với số của quan tài, để về sau trả lại cho thân nhân người quá cố.

Công tác hốt xác kéo dài ròng rã tới bảy tháng mới hoàn tất.

Sau khi thu nhặt hết xác trên hai bãi cát dọc hai bên đoạn quốc lộ̣ mang tên “Đại Lộ Kinh Hoàng” và mai táng xong, anh em ST còn giữ lại nửa triệu, tức một phầ sáu tổng số tiền lạc quyên được từ đọc giả hảo tâm, chúng tôi đã dùng số tiền nầy dựng một bức tượng Đức Địa Tạng rất lớn ngay chỗ có nhiều xác chết nhất, lập một đền thờ oan hồn, và tổ chức một lễ cúng do anh Lý Đại Nguyên từ Saigon đại diện tòa soạn ra chủ tọa. Đền thờ này vẫn còn cho đến ngày nay.

Lời cuối:
Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, chiến tranh nào mà chẳng có nạn nhân. Nhưng hình ảnh của một đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa một chiến trường thảm khốc đầy xác thường dân như ở Đại Lộ Kinh Hoàng vẫn là một hình ảnh đau thương nhất mà chúng ta không thể nào quên được.

Vì vậy tôi cố tìm cho được câu chuyện của một nhân chứng đích thực, còn sống để kể lại hầu quý vị và riêng tặng cho đại tá Việt Gian CS Nguyễn Việt Hải, chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của Quân đội Nhân dân của nước Cộng hòa 
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.


Trong tác phẩm “Mùa hè cháy”, xuất bản năm 2005, tác giả đã viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122, pháo 130 và pháo 155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên Quốc lộ 1 vào đám ngụy quân (dân Miền Nam VN) trên đường bỏ chạy.

Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn.

Bài báo ngắn ngủi và khiêm nhường hôm nay hy vọng sẽ đến tay các pháo thủ miền Bắc ngày xưa để họ nhớ lại thành quả vào ngày 1 tháng 5 trong chiến dịch Nguyễn Huệ 1972.

Ðịnh mệnh nào đã dành cho ông Phan văn Châu còn sống để định cư tại Hoa Kỳ với 11 người con thành đạt, hàng năm vẫn gửi tiền về giúp cho miền quê nghèo khổ xứ Nhan Biều. Bây giờ, những mộ phần tập thể của dân oan chết vì trận mưa pháo Bông Lau năm 72 đã chẳng còn dấu vết. Những đứa bé đói sữa nằm bên xác mẹ rồi cũng đã chết hết trên đại lộ kinh hoàng 37 năm về trước.

Nhưng mà sao tiếng khóc của em vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây …
Giao Chỉ, San Jose

Từ Đại lộ kinh hoàng đến Chiến thắng Quảng Trị

CothanhQTri

Cuối tuần qua, chúng tôi có đón tiếp các em học sinh tiểu học vào thăm Bảo Tàng. Giáo sư Hoa Kỳ phụ trách chia 30 em làm 3 toán đi cùng các phụ huynh và các thầy cô giáo. Ông trưởng phái đoàn cho biết trong số các em nhỏ từ 8 đến 12 tuổi có cả vài em Việt Nam. Ngoài ra cũng có hơn 10 em nữ sinh trung học của một trường công giáo tháp tùng. Mỗi toán luân phiên sẽ có 20 phút. Tiếp đón 3 toán kể cả thuyết trình, hướng dẫn và hỏi đáp ba lần phải giới hạn hoàn tất trong 1 giờ. Các em hoàn toàn không biết gì về Việt Nam, về thuyền nhân, về chiến tranh, về quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Cờ bay trên Cổ thành Quảng Trị.

Thưa quý vị độc giả thân mến của tôi, nếu quý vị có 20 phút để chỉ cho 1 em nhỏ Hoa Kỳ hoặc là 1 em bé Việt Nam 10 tuổi sinh tại nước Mỹ, thì quý vị sẽ nói cho em những chuyện gì, cho em coi những hình ảnh gì. Các em nhỏ này là khách hàng tiêu biểu của chúng tôi. Có thể vài năm sau sẽ trở lại thăm Museum. Có thể suốt đời các em chỉ đến với Viện Bảo Tàng có 1 lần.
Ðó là niềm suy tư khắc khoải của những người muốn kể lại cho thế hệ tương lai những câu chuyện từ quá khứ. Hoa kỳ có phim Alamo nói về 200 chiến binh anh dũng hy sinh trong trận chiến thời kỳ tiền nhân mở nước. Chúng tôi sẽ làm phim Quảng Trị để gửi cho con cháu của dân tỵ nạn Việt Nam. Câu chuyện nhắc đến hôm nay sẽ là đề tài cho đoạn phim tài liệu với tựa đề dành cho 1 trận đánh khốc liệt và điển hình trong chiến tranh Việt Nam.

Chuyện xảy ra vào năm 1972, cách đây 37 năm. Nơi xảy ra là chiến trường miền Trung, vùng đất nước chia đôi. Ngày xưa thời Trịnh Nguyễn chia cắt bằng con sông Gianh. Sau đó hai miền Quốc Cộng chia đôi bằng sông Bến Hải. Tuy nhiên, lịch sử của chuyện phim này phải bắt đầu vào tháng 4 năm 1954, cách đây 55 năm. Có 300 thanh niên Hà Nội được gọi vào thụ huấn trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt. Trong đó có 3 người được xếp vào đại đội 6. Anh Trần quốc Lịch trung đội 21, Anh Ngô văn Ðịnh trung đội 22 và anh Phạm văn Chung, trung đội 24.
Tháng 10-1954 các anh sinh viên sỹ quan quỳ xuống vũ đình trường khi đứng lên trở thành tân thiếu úy đưa về các đơn vi nhảy dù và thủy quân lục chiến.
18 năm sau, 1972 cả 3 tình cờ có mặt tại chiến trường vùng hỏa tuyến vùng I. Ba người chỉ huy 3 lữ đoàn. Ðại tá Ngô văn Ðịnh chỉ huy lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến có mặt tại chiến trường năm 1971 trước khi trận mùa hè đỏ lửa bắt đầu. Tháng 4-72 đã trải qua các trận trì hoãn chiến hết sức ác liệt khi lữ đoàn lui binh từ Ái Tử, Ðông Hà về đến bờ nam sông Mỹ Chánh.
Tháng 4-1972 Ðại tá Phạm văn Chung chỉ huy lữ đoàn 369 vừa từ giã chiến trường đường số 9 từ sau trận Hạ Lào đang về làm tổng trừ bị cho Saigon thì lại có lệnh cấp tốc trở ra tiếp ứng cho chiến trường Quảng Trị.
Tháng 5-1972 Ðại tá Trần quốc Lịch, lữ đoàn trưởng lữ đoàn II nhẩy dù được lệnh tăng cường cho Quân khu I trong giai đoạn miền Nam phản công. Từ mặt trận Kotum, Tân Cảnh với những đau thương chất ngất bỏ lại đồi Charlie, lữ đoàn băng bó vết thương cho tiểu đoàn 11 rồi lại cùng nhau tất tả lên đường.
Trải qua 18 năm chinh chiến, từ 54 đến 72 trong các cuộc hành quân khắp 4 vùng chiến thuật, anh em cựu sinh viên Ðà Lạt gặp nhau nhiều lần nhưng đôi khi không còn nhớ đến chuyện ai là bạn cùng khóa. Cho đến ngày nay, 55 năm hội ngộ, cả ba anh em, sau những năm tù đày lưu vong mà vẫn còn sống, đã có dịp bắt tay nhau trong tuổi cao niên, nhớ lại những kỷ niệm hành quân thủa nào ở miền tuyến đầu đất nước. Và cả ba cùng cảm nhận được những giây phút tình cờ của lịch sử. Vào cái năm 72 tàn khốc ở Quảng trị, cả 3 vị lữ đoàn trưởng của tổng trừ bị, từ Dù đến Thủy quân lục chiến đều không ngờ rằng khi vào đời năm 1954, ba anh sinh viên sĩ quan trẻ của đại đội 6 khóa Cương quyết Ðà Lạt sau này sẽ tao ngộ trên 1 chiến trường nổi danh nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa. Và tháng 7 năm nay 2009, anh em lại có dịp ngồi bên nhau. Tuổi đời ai cũng trên 75, ngồi cạnh ông thầy đại đội trưởng Nguyễn Thọ Lập 92 tuổi từ Missouri qua thăm.
Anh em cùng ngồi để nhớ đến hàng trăm ngàn chiến binh Việt Nam Cộng Hòa thương vong trong chiến dịch 72. Trải qua các chiến trường từ vùng I, qua cao nguyên và duyên hải vùng II vào đến miền đông của vùng III.
sd phamvan chungTRANS
Ðại tá Phạm văn Chung chỉ huy lữ đoàn 369 TQLC
Nhân danh các tử sĩ anh hùng nằm xuống miền đất Quảng. Nhân danh những đứa bé thơ nằm chết khô bên xác mẹ trên đại lộ kinh hoàng, chúng tôi sẽ tìm cách dựng lại bộ phim về trận Quảng Trị. Trong cuốn phim tài liệu này, tính cách nhân bản của người lính Việt Nam Cộng Hòa sẽ được chú trọng. Những tình cờ của lịch sử sẽ được đề cập đến. Cuộc đời của 3 thanh niên Hà Nội sau 18 năm đi lính Cộng Hòa tao ngộ trên hỏa tuyến sẽ được ghi nhận là chuyện hy hữu của dòng đời.
Vào những ngày tháng oan nghiệt kể từ đầu năm 72 cho đến giây phút cờ bay trên cổ thành Quảng Trị, ba người sinh viên sĩ quan trẻ của trường Ðà Lạt năm 1954 đang ở đâu và đã làm gì.
Trung ương đảng Hà nội quyết định trận đánh mùa hè khởi sự vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, đại quân cộng sản đánh thẳng qua sông Bến Hải cùng một lúc địch đánh Kontum, Tân Cảnh trên cao nguyên và Bình Long, An Lộc ở miền Ðông Nam phần. Ngay từ giờ phút đó lữ đoàn thủy quân lục chiến của Ngô văn Ðịnh đã có mặt để chịu đựng những đợt pháo đầu. Ðại tá một đời mũ xanh của Việt Nam Cộng Hòa đã viết ký sự 4 năm hành quân với lữ đoàn 258 TQLC. Bốn năm gian khổ của chiến trường từ 1971 đến 1974 và trận mùa hè 72 là cuộc thư hùng kinh hoàng nhất. Ông viết về chuyện người vợ đem đứa con gái 3 tuổi ra thăm chồng đã có dịp ăn 1 tô mỳ đầu tiên và cuối cùng tại thị trấn Ðông Hà. Trong 1 bài ký sự khác, tác giả viết về trận đánh vào Quảng trị với những giây phút hết sức giao động và ngậm ngùi. Là người trực tiếp tham dự trận phản công, ông chỉ huy lữ đoàn tiến quân từ phòng tuyến Mỹ Chánh lên đến Cổ thành. Người tiểu đoàn trưởng can trường đứng bên ông khi lá cờ bay trên thành phố thân yêu đã hy sinh vào năm 1975.
Trong khi đó đại tá Phạm văn Chung đã có thiên bút ký dành cho lữ đoàn TQLC 369 bên bờ sông Mỹ Chánh. Cũng từ Saigon đem quân trở lại miền trung, đại tá Phạm văn Chung nhận công tác bảo vệ mặt trận cận sơn phía tây quốc lộ số 1 từ Mỹ Chánh lên Quảng Trị.
Khi đại quân của cộng sản phá vỡ phòng tuyến phía bắc Quảng Trị cho đến khi sư đoàn 3 tan hàng thì chỉ còn các đơn vị thủy quân lục chiến lui binh với các trận trì hoản chiến đáng ghi vào lịch sử.
Sau các trận thư hùng đẫm máu ở đông và tây cùa quốc lộ 1, cả 2 lữ đoàn TQLC của Ngô Văn Ðịnh và Phạm văn Chung đều chấp nhận thương vong, bảo toàn lực lượng.
Cho đến tháng 5-1972 thì lữ đoàn 369 của đại tá Phạm văn Chung đã hoàn toàn giữ vững phòng tuyến sông Mỹ Chánh. Kế hoạch tấn công 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên của cộng sản mới hoàn tất được nửa đường.
Niềm vui nhỏ và đầy tình người của ông Phạm văn Chung khi có tin vợ sanh con trai ngày 24 tháng 4-1972 tại Sai Gon.
Vào thời kỳ 72 phía Hoa kỳ các đơn vị đã triệt thoái, chỉ còn lại cố vấn.
Trên 10 cuốn sách đã được tác giả Mỹ và cố vấn viết về trận 72 mà họ gọi là trận chiến mùa Phục Sinh (Easter Offensive). Việc thất thủ căn cứ Carroll của trung đoàn 56 thuộc sư đoàn 3 bộ binh. Các đơn vị Việt Nam tan hàng ở mặt trận miền bắc Quảng Trị. Khi sư đoàn 3 rời bỏ Cổ thành. Các lữ đoàn thủy quân lục chiến lui binh trên các phòng tuyến từ Gio Linh đến sông Thạch Hãn. Câu chuyện phá cầu Ðông Hà, rút bỏ thị xã, phá cầu sông Mỹ Chánh và sau cùng là hình ảnh cộng sản tàn sát dân chúng di tản trên quốc lộ số 1 ở đoạn đường sau này được gọi là Ðại lộ kinh hoàng. Tác phẩm mới nhất của Richard Botkin với tựa đề Ride The Thunder (Cưỡi lưng sấm sét) viết chuyện phá cây cầu Ðông Hà thành công để kịp thời chặn đường tiến quân của cộng sản.
NgoVanDinh
Ðại tá Ngô văn Ðịnh chỉ huy lữ đoàn 258 TQLC
Ðại tá Trần quốc Lịch, lữ đoàn trưởng lữ đoàn II  ND
Ðại tá Trần quốc Lịch, lữ đoàn trưởng lữ đoàn II ND
Rồi đến một ngày đáng ghi nhớ của lữ đoàn 369 là buổi trưa 5/5/72 trung tướng Ngô quang Trưởng thăm phòng tuyến sông Mỹ Chánh. Lúc đó đây là ranh giới hành quân cuối cùng của miền Nam. Bên kia Mỹ Chánh là toàn thể tỉnh Quảng Trị trong tay địch. Vị tân tư lệnh vùng 1 hỏi ông lữ đoàn trưởng đang ở ải địa đầu: “Mình giữ được không, Chung?” “Mình giữ được, trung tướng.” Ông Phạm văn Chung trả lời.
Sau hơn 1 tháng, với sức mạnh quân số tương đương 8 sư đoàn gồm cả bộ binh, thiết giáp, phòng không, pháo binh, đặc công và địa phương, Bắc quân chiếm đóng hoàn toàn Quảng Trị. Trận 72 nằm trong chiến dịch được cộng sản đặt tên là Nguyễn Huệ. Ðịch khích lệ bộ đội bằng khẩu hiệu: “Khí thế hơn Mậu Thân, ra quân như Nguyễn Huệ.”
Tư lệnh Bắc quân tại mặt trận miền Trung là tướng Lê Trọng Tấn.
Trong chiến trận 72, nếu lữ đoàn 369 TQLC không giữ được phòng tuyến sông Mỹ Chánh thì chắc chắn mặt trận Thừa thiên, Huế sẽ tan vỡ.
Trong tài liệu của Hà Nội ghi lại, giai đoạn đầu dự trù sẽ đánh thẳng từ Bến Hải đến đèo Hải Vân. Cũng trong tài liệu này, cộng sản công nhận đánh đến Mỹ Chánh họ đã hoàn toàn mất sức. Hà Nội chuẩn bị một năm, và đã thành công giai đoạn đầu.
Phần hai của chiến dịch Quảng Trị từ tháng 5-72 cho đến giữa tháng 9-72 là giai đoạn Việt Nam Cộng Hòa phản công. Phía địch bắt đầu trì hoãn chiến và sau cùng rút vào phòng ngự Cổ thành Ðinh công Tráng. Trung tướng Ngô quang Trưởng tân tư lệnh vùng I được xử dụng quân số tương đương với 4 sư đoàn gồm tổng trừ bị, bộ binh, thiết giáp, pháo binh, không quân, hải quân để phản công. Công cuộc chuẩn bị, tái trang bị và bổ sung phải hoàn tất trong trung tuần tháng 6-72. Từ bên Pháp, hội nghị đàm phán ngóng chờ tin chiến sự từng ngày. Sau cùng, ngày 28 tháng 6-1972 từ phòng tuyến Mỹ Chánh, binh sĩ miền Nam vượt sông bắc tiến. Nhẩy dù phía cận sơn, Thủy quân lục chiến bên duyên hải. Bên dù có lữ đoàn II của Trần quốc Lịch với 5 tiểu đoàn tác chiến đi trong đội hình của sư đoàn mũ đỏ gồm cả lữ đoàn I và IIIƯ. Bên TQLC có lữ đoàn 258 của Ngô văn Ðịnh với 5 tiểu đoàn tác chiến đi trong đội hình của sư đoàn mũ xanh gồm cả lữ đoàn 369 và 147. Bên nào cũng có pháo binh và thiết giáp yểm trợ. Với 18 cây số tiến về thị xã Quảng trị. Chưa bao giờ có cuộc tấn công quy mô diện địa lớn lao như thế với 2 sư đoàn tổng trừ bị tiến vào mục tiêu cổ thành nhỏ bé nhưng mỗi cây số là một trận thương vong đẫm máu
Ðứng từ phòng tuyến Mỹ Chánh vào cuối tháng 4-72, với khói lửa mù mịt chân trời, đại tá Phạm văn Chung quan sát trận pháo kích kinh hoàng của cộng sản trên quốc lộ để con đường chạy giặc trở thành đại lộ kinh hoàng. Bây giờ đến lượt đại tá Trần quốc Lịch tiến quân trên con đường đau thương đó, còn đầy những xác người để đưa quân vào Quảng trị. Khi đến ngoại ô thị xã, cả hai cánh quân Dù và TQLC song song đã dẹp hết mọi ổ kháng cự. Sư đoàn Dù được lệnh quay ngang ra hướng biển để đánh vào châu thành. Một đơn vị đã lọt vào Cổ thành nhưng rồi lại bị đánh bật ra. Ngày 27-7-1972, sư đoàn TQLC được lệnh thay thế sư đoàn nhảy dù đánh vào cổ thành Ðinh công Tráng. Trận đánh kéo dài 48 ngày và tính chất kinh hoàng của trận dứt điểm đã được đại tá Ngô văn Ðịnh tổng kết với 3.500 thủy quân lục chiến hy sinh và hàng chục ngàn bị thương.
Phía bên địch tổng kết thương vong của toàn thể chiến dịch mùa hè 72 trên 100 ngàn bộ đội và riêng tại hỏa tuyến trong năm 1972 địch chết lên đến 30 ngàn quân. Tài liệu của cộng sản qua cuốn chiến sử tựa đề Nghệ thuật toàn thắng phổ biến năm 2005 đã ghi lại các mốc thời gian như sau:
Giai đoạn tiến công từ 30 tháng 3-72 đến 27 tháng 6-72.
Giai đoạn phòng ngự từ 1 tháng 9-72 đến 31 tháng 1-73.
Riêng thời gian cuộc chiến ác liệt nhất, chiến sử cộng sản xác định từ ngày 28 tháng 6-72 đến 30 tháng 8-72 là thời kỳ ngăn chặn kéo dài 2 tháng cho đến 16 ngày phòng ngự cuối cùng trong tuyệt vọng tại cổ thành từ 1 đến 16 tháng 9-72. Ðịch ghi nhận ngày 13 tháng 9-72, tiểu đoàn 6 của lữ đoàn 258 lọt vào khu đông nam, tiếạp theo tiểu đoàn 3 của lữ đoàn 147 lọt vào phía đông bắc. Cùng thời gian này cộng sản đưa thêm tiểu đoàn 8 địa phương vào tăng cường và bắt đầu đưa thêm trung đoàn 18 vượt sông vào ngày cuối nhưng không thành công vì quân Sài Gòn đã chiếm đóng hoàn toàn trận địa.
Một nhà thơ của miền Bắc đã từng viết ra những lời than thở là hàng hàng lớp lớp người đi, sao chẳng có ai trở lại.
Thơ rằng:
2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30. Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
…..
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!

Và đây là một trích đoạn của nhà thơ khác:
Thôi thì chinh chiến không ai muốn
Vẫn phải sôi gan giặc đến nhà
Vận trời – máu chỉ loang chừng ấy
Rừng đào linh hiển vẫn ra hoa
Ðá núi nghìn năm nằm thở khói
Lau trắng nghìn năm lau trắng thêm
Cớ gì sông núi hao gầy mãi
Ai nhớ và ai đang muốn quên?

Với những nét sơ lược về trận Quảng Trị, chúng tôi xin mời quý vị chờ đón phim “Từ đại lộ kinh hoàng đến chiến thắng Quảng trị “ sẽ được thực hiện nay mai sau đợt phim “Chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa” đã phát hành.
Trận Quảng trị chắc chắn không phải chỉ có 3 vị chỉ huy lữ đoàn xuất thân khóa Cương Quyết Ðà Lạt 1954 mà còn hàng trăm ngàn quân dân chính miền Nam đã góp phần xương máu. Việc đưa ra 3 chiến hữu của một thời huynh đệ 55 năm trước chỉ đơn thuần có tính cách biểu tượng đặc thù.
Ðể tô điểm thêm về tài liệu và nêu cao tính cách nhân bản của bộ phim, xin quý vị nếu có hình ảnh và các tin tức về trận Quảng Trị vui lòng cung cấp cho chúng tôi.
Ai là người đã tham dự trận đánh vào cổ thành, ngày nay còn sống trên đất tự do.
Ai là người đã đi qua đại lộ kinh hoàng giữa cơn bão lửa.
Ai là người ký giả đã đặt tên cho con đường đau thương đó.
Nhạc sĩ nào sáng tác ra bản cờ bay bất hủ dành cho ngày dựng cờ 16 tháng 9-72 trên cổ thành Quảng Trị.
Xin liên lạc về văn phòng IRCC, Inc.
địa chỉ: 1445 Koll Circle, #110, San Jose, CA. 95112. Ðiện thoại: ( 408 ) 392 9923 [GC,SJ]
Giao Chỉ


Những oan hồn trên
Đại Lộ Kinh Hoàng
 
 
... cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thơ.

 
Trần Đức, 9/5/02
 
Thấm thoắt đã 30 năm trôi qua kể từ ngày một đoạn đường số 1 dẫn từ Mỹ Chánh ra Quảng Trị đã được đặt cho cái tên là "đại lộ kinh hoàng". Một người lính nhẩy dù, nước mắt chan hòa, đứng lặng giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóe. Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ còn bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm đạn giặc...
Tất cả im lặng. Không có tiếng người, không có tiếng chim. Chỉ có những tiếng phành phạch của những tấm bạt xe, những mảnh quần, vạt áo cứng còng vì bê bết máu khô đang bị gió lùa bay lên như những cái vẫy tay kêu cứu. Thỉnh thoảng, có một mảnh vải, một mảnh băng tuột ra, bay bổng theo gió rồi mắc trên những bụi cây gai trên đồng trống khô cằn... Trên mặt lộ, mỗi xác chết như đã in hình dáng của mình trên nhựa đường bằng một quầng đen đậm. 
Đó đây, giữa đám xác người, người ta còn nhìn thấy rải rác những đuôi đạn súng cối 61 lý và B40 là những vũ khí có tầm xa không quá 1 cây số nằm ngổn ngang. Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công "Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972" ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của những người cộng sản. Đoàn quân tiến ra Quảng Trị, trả lại sự lặng yên, hiu quạnh cho đoạn đường chết chóc. Thoáng nhìn trong đội hình, có người làm dấu thánh giá, có người chắp tay niệm Phật. Chỉ tiếc không có nén hương, ngọn nến thắp lên để sưởi ấm những oan hồn mà thân xác còn phơi giữa đồng khô, cỏ cháy.
Đoạn đường mang tên "Đại Lộ Kinh Hoàng" nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Nhưng từ năm 1975 mỗi năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ. Không ai dám hé răng nửa lời. Có những người không còn thân nhân thì mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ dược là 30 năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ.
Tin từ trong nước cho biết, trong thời gian từ ngày 28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị. Đại lễ được sự hộ niệm của quý thầy từ các vùng lân cận, đặc biệt của Tăng Đoàn Thừa Thiên - Huế. Người ta ghi nhận, có quý Hòa Thượng Thích Thiện Hạnh, Hòa Thượng Thích Như Đạt, Hòa Thượng Thích Phước Duyên cùng đông đảo quý Thượng Tọa, Đại Đức và Tăng Ni.
Trong suốt thời gian đại lễ, đồng bào hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị đã tề tựu rất đông để tham dự, có những buổi lên đến vài ngàn người, mặc dù chính quyền địa phương đã cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xe. Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.
Trước khi khai đàn, theo nguyện vọng của đồng bào, quý Thầy đã vào tận Đại lộ kinh hoàng, từ Cầu Dài về phía Hải Lăng, để rước thỉnh các hương linh của nạn nhân cộng sản về đạo tràng chùa Long An. Một tiết mục đặc biệt khác của đại lễ là lễ Phóng sinh đăng, kết thuyền hoa đăng cúng ngay trên dòng sông Thạch Hãn. Vào ngày cuối của đại lễ, cũng có một trai đàn chẩn tế để giúp đỡ cho các gia đình nghèo khổ cơ nhỡ tại địa phương.
Người lính nhẩy dù của 30 năm trước, hôm nay cũng chan hòa lệ rơi khi được tin những oan hồn uổng tử trong Mùa Hè Đỏ Lửa trên Đại Lô. Kinh Hoàng đã được tăng ni phật tử tới tận nơi rước vong về chùa giải oan, siêu thoát. Họ không những được sự tế độ của chư tôn đức mà còn được sự tưởng nhớ của hàng ngàn Phật tử Thừa Thiên, Quảng Trị và hàng triệu đồng bào ta tưởng nhớ tới họ. Hơn 2 triệu người Việt sống tha hương trên đất khách quê người cũng hướng về Quảng Trị, hướng về Đại Lộ Kinh Hoàng và thắp nén hương lòng tưởng nhớ tới họ, cầu nguyện cho họ được siêu thoát và được tiêu diêu miền cực lạc.
Việt Nam còn nhiều oan hồn còn dật dờ nơi nhà tù, trại giam, ven rừng, ven suối, hoang đảo, đại dương. Việt Nam còn nhiều anh linh những người đã hy sinh để bảo vệ bờ cõi, chiến đấu giải phóng dân tộc. Những vị này đã bỏ mình vì sự độc ác của đảng và chế độ cộng sản trên quê hương thân yêu của chúng ta. Cả nước cần cầu siêu cho họ. 
Nhưng điều cần phải làm là rửa hờn cho họ và tiếp nối ý chí anh dũng của họ.



Thời Sự "Nóng"





------------------------------------------

---------------------------------------------------------
Vân Anh -Ngày 1 tháng 10 Hà Nội Chính Thức Bán Nước Cho Bắc Kinh
----------------------------------------