Sunday, 24, September,2006
_
Lũ Con Buôn Vịt Trời
Việt Thường
Từ lễ Vu Lan đến Trung Thu của năm Ất Dậu (2005), biết bao nhiêu chuyện xảy ra ở cả trong nước Việt Nam và trong cộng đồng người Việt tỵ nạn (cộng sản), nhất là ở bên Mỹ!
Chuyện thứ nhất
Phan văn Khải, thủ tướng tập đoàn Việt gian Pắc-Bó, cùng lâu la lếch thếch sang Mỹ. Hắn đã tận mắt nhìn thấy rừng quốc kỳ Việt Nam Công hòa chói chang trước Nhà Trắng, hoàn toàn ngược với những gì tên đặc công đỏ Bùi Tín đã viết nơi trang 95 trong cuốn “Mây mù thế kỷ”, rằng:
“… Có người tuy biết rõ sự thật, hiểu tình hình đất nước, nếu phải lựa chọn, họ vẫn lựa chọn những người “cộng sản” hơn là người “quốc gia””.
Cho dù trên Người Việt Online, ngày thứ sáu, 2-9-2005, họ cố tình tô son cho tên đặc công đỏ Bùi Tín, qua bài “Ông Bùi Tín có mặt tại Nam California”, kẻ đưa tin đã rất bất lương khi trắng trợn hạ bút:
“Nhà báo Bùi Tín, người đã rời bỏ hàng ngũ CSVN vào năm 1979, được báo chí thế giới rất chú tâm về công cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam hiện nay, đang có mặt tại Little Saigon, Hoa Kỳ để tham dự một số các buổi họp vận động dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam và cũng là dịp để gặp gỡ lại với ông Hoàng minh Chính vừa tới Hoa Kỳ chữa bệnh.”
Hai cái đại bất lương của Người Việt Online là:
Thứ nhất: Năm 1979, Bùi Tín trong cuốn “Hoa xuyên tuyết” còn cho in tấm ảnh đứng ở Chùa Tháp Angkor Thom (Căm-bốt) (tháng 11-1979), theo bước chân lũ Việt gian ngụy quân sang xâm lược “nước bạn Căm-bốt”. Và, thời kỳ đó Bùi Tín vẫn còn khoác áo lính ngụy cộng sản, chưa về tờ báo cuội đỏ “Nhân dân” nữa kia. Và, Bùi Tín cũng chưa dám lấy lại cái họ Bùi mà Bùi Tín từ bỏ từ cái gọi là “cải cách ruộng đất”, để chứng tỏ một lòng một dạ trung thành với cộng sản Việt Nam, cắt bỏ cái đuôi giòng dõi quan lại, phong kiến. Năm 1990 ra đến hải ngoại, tận “Hoa xuyên tuyết” còn giữ tên Thành Tín, chưa dám nhận họ Bùi.
Thứ hai: Khi còn ở trong nước, Bùi Tín là một bút nô đỏ được tin cẩn, đệ tử ruột của Nguyễn chí Thanh, một tên Mao-ít chính tông, làm sao lại gặp hoặc dám gặp Hoàng minh Chính, tên Việt gian thờ Nga-xô, để bây giờ “gặp gỡ lại” như Người Việt Online đưa tin???!!!
Đây là kiểu đưa tin theo “phong cách” Thông luận. Nghĩa là theo kiểu Bùi Tín, Vũ thư Hiên, mà trong cuốn “Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam” chúng tôi đã trưng dẫn bằng cớ.
Chuyện thứ hai
Những anh chị làm nghề báo chí, truyền thông, theo môn phái “thày bói sờ voi”, hệ “thổi ống đu đủ” ở hải ngoại, bị ê mặt qua việc nhà văn “không nổi tiếng về văn chương” là Hoàng Tiến, viết bài “bóc mẽ Nguyễn thanh Giang”, người đã được nhóm “thổi ống đu đủ” nâng lên là… “đại trí tuệ”, là “đại trí sỹ”, là “nhà trí thức hàng đầu” vân vân và vân vân, mới dzô tù cộng sản có chưa đầy hai tháng đã… đầu hàng thành… viện sỹ, tiến sỹ đại hèn!!!
Nguyễn thanh Giang đáp lại cũng chẳng vừa. Chứng minh rằng Hoàng minh Chính là kẻ độc tài, tự ý chỉ định tác giả “chủ nghĩa Hồ chí Minh” và cụm từ “đức thánh Hồ”, là Trần Khuê, làm người phát ngôn của nhóm… “dân chủ cuội”. Nghĩa là một thứ người… kế vị Hoàng minh Chính; giống kiểu Lê khả Phiêu kế vị Đỗ Mười vậy.
Hai chú cuội dân chủ đỏ, đấu nhau như trâu trọi ở lễ hội Đồ Sơn, mặc dù đều ở tuổi “cổ lai hi”, đã cưa sừng làm nghé, để dùng “uy tín” của “Ma-đam” Dương thu Hương, chứng minh xem ai là “dân chủ cuội” và ai là “dân chửi thiệt”!!! Trò này “hơi” bị yếu!!!
Mấy anh thày bàn tào lao, sau cú sốc – như kiểu Quốc Hưng ở Đàn Chim Việt thú nhận – vội lu loa rằng… thì… là… mà… như thế là dân chủ, công khai, dấu hiệu trưởng thành. Và, một thành viên trong cái tiểu đội cuội đó, là Tiêu dao Bảo Cự, vội viết bài… ca ngợi cả đôi bên, theo điệu kèn đu đủ. Nào là, Hoàng Tiến thì… “chừng mực, khúc chiết nhưng kiên quyết, khí phách”. Còn Nguyễn thanh Giang thì… “uyên bác, sắc sảo và mạnh mẽ”. Và, kết luận thật là… tiêu dao: “Các bài viết của hai ông thể hiện trí tuệ, nhân cách, bản lĩnh…” Nghĩa là, Tiêu dao Bảo Cự cũng thủ võ, chỉ nhận xét rằng bài viết của Hoàng Tiến, Nguyễn thanh Giang thì tỏ ra là “trí tuệ, nhân cách, bản lĩnh”, còn khi hành động thì “đếch” (như chữ Hoàng Tiến dùng) trí tuệ, đếch nhân cách, đếch bản lĩnh tý teo nào cả!
Và đây là kết quả:
1) Người phát ngôn của tiểu đội dân chủ cuội, do chỉ định, là Trần Khuê thì cùng vợ, mặt mũi hơn hớn, qua tấm ảnh trên Việt Báo Online, thì thấy ngả đầu bên phải khi được chụp với viên lãnh sự Mỹ ở Sài-gòn, và ngả đầu bên trái khi chụp với… một lãnh sự nước khác. Và, ngực thì đeo cả cờ Mỹ lẫn cờ Việt gian, nền đỏ sao vàng!!!
2) Còn Hoàng minh Chính được visa qua Mỹ chữa bệnh ung thư tuyến tiền liệt, kể lể bị tù đày tra tấn nhiều năm. Nhưng chắc chắn tù đày và tra tấn không phải là nguyên nhân bị ung thư tuyến tiền liệt.
Cái bản lãnh của nhà “đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam”, Hoàng minh Chính, bộc lộ rõ nhất qua giọng nói vui sướng khi đặt chân lên nước Mỹ, mà nhiều năm về trước Chính vẫn chửi Mỹ là “tên đế quốc tàn bạo nhất, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù lớn nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới”, ở cái thời huy hoàng khi còn đứng trên bục giảng khóa chính trị trung cấp tại cái trường có tên Nguyễn ái Quốc, rằng: “chờ đợi cái ngày này cả 20 năm nay”!!!
Thì ra là thế! Nếu không, ở cái tuổi đã “quá cổ lai hi” rồi, lại bệnh tật, thính lực bị giảm 40%, Hoàng minh Chính, tỏ ra có tý ty bản lãnh thì, nên nhường chuyến đi này cho Lê chí Quang, một người tuổi còn rất trẻ, rất can đảm dấn thân thực sự cho quyền lợi của nhân dân và Tổ quốc Việt Nam.
Tóm lại, cuội Hoàng minh Chính cũng không vượt qua được cái bã danh và lợi. Và, tuy làm nghề chính trị từ cái thuở đeo lon thiếu tá ngụy quân cộng sản, phụ trách chính ủy trung đoàn, với thành tích cổ vũ, cưỡng ép một số thanh niên ngụy quân cộng sản bị lừa vì cái bánh vẽ “chống thực dân Pháp”, để sẵn sàng hy sinh trong trận đánh cảm tử vào sân bay Bạch Mai, nên được lên lon trung tá. Rồi, nhờ là một đảng viên cộng sản cuồng tín, nên được tập đoàn Hồ Việt gian trao cho nhiệm vụ tẩy não thế hệ thanh niên Việt Nam, cũng như được cài vào lòng đảng Dân chủ với cái chức Tổng thư ký, phá từ trong ra, từ trên xuống cho toàn Đảng Dân chủ Việt Nam thành… bù nhìn thứ thiệt.
Được cho qua Nga-xô học về triết học Marx-Lénine. Tuy chẳng đoạt được học vị nào, nhưng về lại Việt Nam vẫn được giữ cái ghế Viện trưởng Viện triết học Marx-Lénine, kiêm phó hiệu trưởng trường đảng (cộng sản) Nguyễn ái Quốc; giảng viên các khóa chính trị tập trung ngắn hạn (loại 3 tháng hoặc 6 tháng) cho cán bộ trung cấp của guồng máy Việt gian đang cai trị phía Bắc Việt Nam.
Với cái gốc gác như thế, nên đương nhiên Hoàng minh Chính một lòng một da ïtrung thành với mẫu quốc đỏ là Nga-xô.
Là cán bộ lý luận Marx-Lénine, chưa phải diện trung ương, nên Hoàng minh Chính còn là một thứ “thư ký lý luận” của Trường Chinh. Nghĩa là, một quân cờ trong tay Trường Chinh dùng đối phó lại với những bộ mặt lý luận có nanh có mỏ, trong trung ương như Nguyễn khánh Toàn, Bùi công Trừng, Dương bạch Mai v.v… và ngoài trung ương như Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Trần đức Thảo… Nhưng, Hoàng minh Chính vẫn giữ nguyên căn cốt của kẻ “cuồng tín” và “rất cận thị về cả lý luận lẫn hành động”. Đó là một con vẹt trong lốt người.
Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh dựa vào sự thành công của Mao ở Tàu lục địa, nhanh chóng ra mặt tay sai của thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng. Chúng vẫn giữ ngọn cờ “tự do cho dân tộc và độc lập cho Tổ quốc” để che đậy bộ mặt bán nước. Nhưng thực chất cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã bị tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh lèo lái thành cuộc chiến bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng dùng xương máu Việt Nam chống thực dân Pháp, nhằm biến 3 nước Đông dương thành thuộc địa đỏ, như Bộ thuộc địa Nga-xô (núp dưới cái tên Quốc tế 3) đã trao nhiệm vụ cho Hồ và cái gọi là đảng cộng sản Đông dương, từ 1930!
Mẹ đẻ Nga-xô thì ở xa, mẹ ghẻ Tàu cộng thì “núi liền núi, sông liền sông”, nên tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, trong nội bộ bị phân hóa làm hai. Một bộ phận thờ Nga-xô, bộ phận khác thì thờ Tàu cộng. Còn tên cáo già, trong bản chất hắn thờ Nga-xô, nhưng mẹ ghẻ Tàu cộng lại ở gần và “vĩ đại” nên hắn phải mềm mỏng, sao cho không mếch lòng mẹ nào, không bị ảnh hưởng đến quyền lực. Vì thế Hồ đã lèo lái hai bộ phận đối lập nhau đó, trong tổ chức Việt gian của hắn, để đu giây giữa mẹ đẻ và mẹ ghẻ. Tất nhiên mẹ đẻ vẫn phải hơn mẹ ghẻ!
Cuộc đấu đá giữa hai tên thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng ra công khai thì đương nhiên từng phe trong các đảng tay sai cũng ra công khai triệt phá nhau, tiêu diệt nhau không khoan nhượng, như phe Lénine và phe Trosky của Nga-xô xưa vậy.
Phe theo Tàu cộng gọi phe Nga-xô là xét lại hiện đại.
Phe theo Nga-xô gọi phe Tàu cộng là giáo điều.
Các cụm từ “xét lại hiện đại” và “giáo điều” không mang nghĩa đen cũng như nghĩa bóng khác nhau. Hệt như hai tên lưu manh chửi nhau:
- Mày là thằng ăn cắp!
- Mày là thằng ăn trộm!
Dù bị chụp mũ là giáo điều hay xét lại hiện đại, thì, thực tế bằng chứng lịch sử cho thấy: cả Nga-xô và Tàu cộng đều là những tên thực dân đỏ, hay thực dân mới, để phân biệt với thực dân Pháp, Anh, Bồ đào nha… là thực dân cũ.
Sợ thế giới lật mặt nạ nên cả Nga-xô và Tàu cộng đều đi võ “vừa đánh trống vừa ăn cướp”, vu vạ Mỹ là thực dân mới!!!(?)
Còn trong nội bộ tập đoàn Hồ chí Minh, hai phe thờ Nga-xô (hay xét lại hiện đại) và thơ Tàu cộng (hay giáo điều) trên thực tế, đối với người dân Việt Nam không là đảng viên cộng sản, cả hai bọn đều là Việt gian. Chưa ai trong bọn chúng nghĩ đến thôi, chứ chưa nói đến là có hành động cụ thể, là trả lại quyền làm chủ đất nước Việt Nam cho nhân dân Việt Nam. Bọn chúng tranh luận nhau xem phải theo Nga-xô 100% hay Tàu cộng 100%, chưa bọn nào nghĩ đến nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam; tự do hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam; bảo toàn bầu trời, vùng biển và lãnh thổ của Việt Nam.
Xin được dẫn chứng:
1) Ung văn Khiêm, ủy viên trung ương chính thức cộng đảng, bộ trưởng ngoại giao của ngụy quyền Hồ chí Minh, là kẻ đầu tiên “hồ hởi” thay mặt ngụy quyền Hồ chí Minh gửi thư hoan nghênh Tàu cộng đã chiếm… đất và biển của Việt Nam. Nên nhớ Ung văn Khiêm là đồng bọn với tụi Hoàng minh Chính, Vũ đình Huỳnh v.v… Đến nay Chính và Hiên vẫn ca ngợi Khiêm!!!
Ung văn Khiêm không hề phản đối vụ dâng đất dâng biển đó mà còn đồng lõa.
Bọn Hoàng minh Chính, Vũ đình Huỳnh, Dương bạch Mai, Lê Liêm, Bùi công Trừng, Nguyễn văn Trấn… cũng vậy. Chưa bao giờ chúng dám phê phán hành động Việt gian đó. Chúng vẫn tự hào là đảng viên của cái đảng Việt gian đó; vẫn thổi phồng công lao phịa của cái đảng Việt gian đó. Cho dù sau này một số trong bọn chúng như Nguyễn văn Trấn, Trần Độ, cho đến Hoàng minh Chính, nhất là Bùi Tín và Vũ thư Hiên… viết sách, hồi ký nhưng nội dung chỉ là trả thù những kẻ đã thắng bọn chúng trong cuộc đấu đá giành cái ghế làm chủ dân và độc quyền bán nước cho Nga-xô mà thôi!
Qua cuộc phỏng vấn của Đàn Chim Việt, Vũ thư Hiên còn kể rằng, mới điện thoại cho tên đặc công đỏ Nguyễn thanh Giang, ở trong nước. Và, cả hai đứa đều đau lòng khi thấy một số người Việt (ở hải ngoại) đã phủ nhận sạch trơn công của đảng cộng sản Việt Nam!!!
Chúng kể lể công ơn của đảng cộng sản Việt Nam (nghĩa là có cha con bọn chúng) đã làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945; đã đánh thắng thực dân Pháp tạo nên trận Điện-biên lẫy lừng; đã đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”, và chiến dịch Hồ chí Minh đã đưa đến “giải phóng” cả nước và đất nước được thống nhất!!!(?)
Ngay khi bị đá đít về vườn, Trần Độ vẫn còn tự hào là đệ tử trung thành của tên đại Việt gian Hồ chí Minh; tự hào về các hành động giết dân, bán nước đó. Còn tên đầu hàng, phản bội Nguyễn thanh Giang (như Hoàng Tiến bóc mẽ) thì phong cho Trần Độ 2 lần anh hùng, nghĩa là việc giết nhân dân Việt Nam Cộng hòa là anh hùng! Và, một nhóm gọi là “trí thức trẻ” ở Canada, trong đó có bác sĩ Lâm thu Vân, đã làm lễ tưởng niệm, khóc than khi Trần Độ chết, và tiếc là không được đi theo “Cụ Trần Độ” trên con đường… Việt gian. Vì thế, được anh chàng cơ hội Nguyễn minh Cần ca ngợi nhóm “trí ngủ” đó là tiên tiến! Tổ tiên ta đã dạy: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” là như vậy!
2) ở trong nước Việt Nam hiện nay, cái nhóm tự nhận là “đấu tranh cho dân chủ”, lèo tèo độ hơn chục mống mà sinh hoạt với nhau, vào cái lúc chẳng có chút quyền hành nào, còn không có dân chủ – như thư của Nguyễn thanh Giang trả lời Hoàng Tiến – thì hỏi rằng bọn chúng nhặt “dân chủ” ở xó nào mang đến cho… nhân dân Việt Nam???
Hoàng minh Chính cũng tự cho mình cái quyền chỉ định Trần Khuê là người phát ngôn của nhóm “dân chủ” cuội.
Tuy không quyền, nhưng tên nào cũng nhăm nhe danh và lợi. Tên nào cũng muốn được giàn kèn đu đủ ở hải ngoại “bốc thơm”, được quốc tế biết đến; được những Việt kiều tỵ nạn cộng sản do thiếu thông tin, bị lũ truyền thông hải ngoại bất lương sản xuất tin giả, khiến động lòng giúp đỡ tiền bạc. Bọn chúng cũng hy vọng được những giải quốc tế qui thành đô-la Mỹ và v.v… Đấy mới đích thực là động cơ để chúng trở thành đối lập cuội.
Lấy Trần Khuê ra làm một thí dụ:
Trần Khuê chưa hề có nổi một cái bằng tương đương tú tài 1, bỗng dưng được lũ truyền thông bất lương dán cho cái nhãn giáo sư, có lúc còn nâng lên thành viện trưởng (viện hán nôm) để gây ấn tượng với người Việt ở hải ngoại và quốc tế.
Trần Khuê cũng hỗn láo theo cung cách của Hồ chí Minh. Hắn đã nâng Hồ lên thành “thánh Hồ”, xếp ngang với “Đức Thánh Trần Hưng Đạo”. Hắn đã xếp Hồ còn trên cả tổ Hùng Vương, khi hắn hạ bút trên giấy trắng mực đen rằng:
“Đức tổ Hùng Vương có công lớn khai sáng nên nhà nước đầu tiên và đó là nhà nước của giai cấp quý tộc”
“Còn Đức thánh Hồ chí Minh khai sáng ra một nhà nước của nhân dân, do nhân dân làm chủ và có một hiến pháp dân chủ sánh ngang được với bản hiến pháp trên thế giới.” (Trích trong Đối thoại, phần Dân chủ: vần đề của dân tộc và thời đại (a), (trang 2) – Trần Khuê)
Trần Khuê lớn lên và già đi trong lòng chế độ nô lệ đỏ của tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh. Hắn không là nông dân, cũng không là công nhân mà là một cán bộ nghiên cứu, cho nên khi hắn cố tình mù, điếc để không biết đến cái nhà nước mà Hồ khai sáng là của dân, do nhân dân làm chủ hay là của tập đoàn Hồ chí Minh, do Nga-xô và Tàu cộng làm chủ. Nếu hắn thực tình không biết thì là đồ ngu, chẳng cần ngó tới. Còn nếu hắn cố tình mù không biết thì tự thân việc đó đã bóc cái mặt nạ “đấu tranh” cho “dân chủ” của hắn xuống rồi.
“Đức thánh” Hồ, của Trần Khuê, còn dùng cái nhà nước mà hắn “khai sáng” đó để lèo lái biến Quân đội Quốc gia với tôn chỉ “Trung với nước, hiếu với dân” thành Quân đội Nhân dân (hoặc bộ đội cụ Hồ) và tôn chỉ là “trung với đảng (cộng sản), hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù (của cộng sản) nào cũng đánh thắng!” Và, “Đức Thánh” Hồ của Trần Khuê đã dùng cái quân đội ngụy cộng sản đó vào việc tranh giành thuộc địa cho Nga-xô – Tàu cộng trên bán đảo Đông dương. Hắn cũng sử dụng cái nhà nước đó để đập tan truyền thống văn hóa của nhân dân Việt Nam, đập tan cơ cấu tổ chức gia đình, xã hội v.v… để nhân dân Việt Nam thành nô lệ đỏ trên mọi bình diện, cả chính trị, kinh tế, văn hóa và sinh hoạt xã hội. Nô lệ đỏ tức là nô lệ cho Nga-xô và Tàu cộng. Cái thân phận nô lệ đỏ của người Việt Nam còn thảm hại gấp cả triệu lần dưới sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp!!!
Cũng “Đức thánh” Hồ của Trần Khuê dùng cái nhà nước mà hắn khai sáng để tiêu diệt mọi thành phần người Việt Nam yêu nước qua cái gọi là: cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cũng như công khai dâng đất, dâng biển, dâng lao động, dâng tài nguyên, hải cảng… của Việt Nam cho Nga-xô và Tàu cộng!
Trần Khuê cố tình bỏ qua những tội ác Việt gian bán nước, giết dân đó của tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh để bịa ra cái gọi là “Chủ nghĩa Hồ chí Minh” như hắn viết trong Đối thoại, phần nhận diện chủ nghĩa xã hội, rằng:
“Trong sự hiểu biết thiển cận của chúng tôi thì chúng ta chỉ có thể theo chủ nghĩa xã hội của Hồ chí Minh” (trang 7). Và ở trang 12, Trần Khuê viết:
“Chúng tôi xin được phép nói thẳng thắn rằng những ai không hiểu hoặc không muốn công nhân học thuyết duy vật lịch sử của Marx, cụ thể là không chấp nhận 5 phương thức sản xuất trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại thì xin miễn đối thoại.”
Có thể có người, ngoài PGS-Ts Phạm duy Nghĩa, cho rằng hiến Pháp 1946 chưa kịp thực thi thì xảy ra chiến tranh!!!(?)
Xin quý bạn đọc nhớ lại rằng, cuối năm 1954 khi hòa bình đã được thiết lập trên cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam thì tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh chẳng những không thực thi Hiến pháp 1946, những điều trong Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, mà chúng còn ném tất cả vào thùng rác, không thèm trưng cầu dân ý như quy định trong Hiến pháp 1946. Và cái nhà nước mà Trần Khuê viết rằng do “Đức thánh” Hồ khai sáng là “nhà nước của dân do nhân dân làm chủ” đó đã tự ý nặn ra Hiến pháp 1959, cai trị bằng sắc lệnh vì đã hủy bỏ bộ tư pháp và khoa luật ở trường đại học Hà-nội. Cái nhà nước mà Trần Khuê ca ngợi là “của dân và do nhân dân làm chủ” đó đã đẻ ra đủ sắc lệnh ăn cướp của dân, trong đó có Nghị quyết 49/NQ/TVQH, ngày 20-6-1961, cho phép Hồ đưa… các ông bà chủ nhà nước (tức nhân dân) đi cải tạo (tức tù khổ sai) không thời hạn!!!
Sau này, khi Hồ bị đưa đi hỏa ngục ở âm ty, thì những đệ tử trung thành của Hồ cũng vẫn dùng cái nhà nước mà Trần Khuê ca ngợi là do “Đức thánh” Hồ khai sáng để mở rộng nhà tù bằng cách biến nhà tư của nhân dân cũng thành nhà tù, dựa vào Nghị định 31/CP do tên Việt gian đại dâm ô, đại tham nhũng là Võ văn Kiệt ký và tên Việt gian cũng nổi tiếng ăn cắp của công là Phan văn Khải bổ sung cho hoàn chỉnh hơn, để cho nhân dân vào tù dài dài.
Chính là những tên bất lương làm truyền thông ở hải ngoại và một vài tên cơ hội, có căn cốt “theo voi ăn bã mía” như tổ tiên ta đã cảnh giác, bỏ qua những phần phản dân chủ, xuyên tạc lịch sử theo lối tô hồng của bút nô Việt gian cộng sản, thổi Trần Khuê thành “Sao Khuê” (Nguyễn thanh Giang thì thành “dòng sông xanh”), rồi “giáo sư”, rồi “viện trưởng”, rồi “nhà đấu tranh nổi tiếng cho dân chủ hóa Việt Nam, v.v… và v.v… lừa đảo lòng chân thật của quốc tế và cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.
Không chỉ ở trường hợp với Trần Khuê mà cả đối với Bùi Tín, Vũ thư Hiên cũng vậy.
Phan văn Khải qua Mỹ vừa xong, không thấy mặt Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn chí Thiện, Nguyễn gia Kiểng và v.v… ở đâu hết. Còn Hoàng minh Chính chưa tới Mỹ thì cả đám đã từ các hang cua dân chủ cuội chui ra đàn đúm bàn những chuyện… buôn vịt trời, bán da gấu!!!
Vũ thư Hiên kêu gọi hải ngoại chữa giúp cái bệnh ung thư tuyến tiền liệt của Hoàng minh Chính,
3) Như trên chúng tôi đã trình bày, rằng đặc thù địa lý của Việt Nam nên Việt Nam dưới chế độ nô lệ đỏ có hai mẫu quốc là Nga-xô và Tàu cộng.
Nội bộ Việt gian cộng sản Việt Nam chia làm hai phe. Bọn thờ mẫu quốc Nga-xô và bọn thờ Tàu cộng. Dù nhìn dưới góc độ nào thì cả hai bọn đều là Việt gian 100%.
Ngay từ 1930, Bộ thuộc địa của Nga-xô (núp dưới cái tên Quốc tế 3) đã có kế hoạch nhuộm đỏ Đông dương, nghĩa là chiếm Đông dương thuộc địa trong tay thực dân Pháp. Cho nên Hồ đã tuân lệnh để đổi tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông dương, mà lúc đó trong đảng cộng sản Đông dương chưa hề có một người Lào và Căm bốt nào.
Thông qua Bộ thuộc địa (tức Quốc tế 3), Nga-xô đã tuyển dụng nhân sự người Việt, đào tạo thành chuyên viên lật đổ, cướp chính quyền bằng bạo lực, cung cấp tiền, mọi phương tiện cần thiết và hoạch định cả đường lối ngắn hạn lẫn dài hạn. Đấy là những sự thật đã và đang tồn tại.
Thời Nga hoàng, nước Nga cũng là thực dân, nhưng chậm chân hơn các nước thực dân khác như Anh, Pháp, Ý, Tây-ban-nha, Hà lan, Bồ-đào-nha, Đức và thuộc loại yếu. Nước Nga trong tay Lénine, dù núp dưới đủ các thứ danh xưng cách mạng nổ như bắp rang, thì sự thưc vẫn tiếp bước chân thực dân của Nga hoàng, có điều theo một mánh khóe tinh vi như núp dưới những cái bánh vẽ thế giới đại đồng, cách mạng vô sản v.v… và triệt để hơn vì nó có tham vọng làm mẫu quốc của toàn thế giới, biến nhân dân mọi tầng lớp trên toàn thế giới thành nô lệ cho Kremlin.
Thời đại nào, xã hội nào, đất nước nào cũng vẫn có những loại người hoang tưởng, nhẹ dạ hàm hồ; có những loại lưu manh, du đãng đầy dục vọng; có những kẻ vì danh vì lợi sẵn sàng bán cả cha mẹ, vợ con, bàn bè và ngay cả tổ quốc. Lại có loại chỉ thích được làm lãnh tụ dù to, dù nhỏ bằng bất kể giá nào, cho nên phải có loại cộng sinh đi theo, chỉ thích được cầm cờ, vác quạt, thổi loa, bợ đỡ nịnh hót. Một sự thật tưởng như đùa, là loại thứ hai này thường xuất hiện ở hạng người có bằng cấp, quì lưng uốn gối làm một thứ thư lại. (Cứ nhìn vào các nước Đức thời Hitler; Nga thời Stalin; Tàu thời Mao, Việt Nam thời Hồ, Cuba trong tay Fidel Castro; Bắc hàn trong tay cha con Kim chính Nhất; I-rắc dưới thời Saddam Hussein v.v…)
Có thể nói rằng, chế độ độc tài nào cũng đào tạo ra lũ trí thức hèn. Và, lũ trí thức hèn là công cụ đắc lực giúp những tên độc tài trưởng thành, tác yêu tác quái và tồn tại đến mức vô lý. (Xin lưu ý rằng đa số là thế chứ không phải toàn bộ trí thức đều như vậy).
Vì thế, chế độ thực dân đỏ, độc tài toàn chế ở Nga-xô cũng như ở các nước thuộc địa đỏ, đều cho ra đời hàng loạt trí thức hèn họ nhà vẹt. Bọn này hầu hết nằm trong cái gọi là các cơ quan lý luận về chủ nghĩa bánh vẽ hoang tưởng Marx-Lénine-Stalin. Chúng sản xuất ra một khối lượng công trình nghiên cứu đồ sộ về cái chủ nghĩa hoang tưởng đó, khiến những người quen cái gọi là nghiên cứu theo kiểu “hàn lâm”, vừa xa thực tế, vừa không có gan nhìn vào sự thật cuộc sống, đã tốn bao thời gian, tiền của để phân tích, thày bàn về cái thứ “không không vô ảnh” đó, trong lúc chủ nghĩa thực dân đỏ, tích cực lợi dụng thời gian hoang mang của nhân loại, để tỏa ra khắp thế giới cái vòi bạch tuộc đỏ, có sự tiếp sức của lũ tay sai bản địa, xì xụp uống máu nhân loại. Và, nực cười nhất là chính nhân dân lao động (tức công nhân và nông dân) là hai giai cấp xã hội được thực dân đỏ cho đi tàu bay giấy lại là những người bị hút máu, bóc lột tàn bạo nhất. Xin cứ nhìn vào xã hội hiện nay ở các nước Việt Nam, Tàu cộng, Bắc hàn, Cuba thì rõ trắng đen.
Hoàng minh Chính là một trong những tên đảng viên cộng sản được tập đoàn Việt gian độc tài toàn trị Hồ chí Minh cho qua mẫu quốc đỏ Nga-xô để đào tạo thành “trí thức hèn” trở về làm tay sai cho bọn thống trị, giúp chúng tẩy não hàng ngũ cán bộ, đảng viên cộng sản, phải hoàn toàn thành nô lệ đỏ 100% với đúng nghĩa nô lệ về mặt tư tưởng.
Bản chất là một con vẹt trong lốt người, vừa cuồng tín thần phục mẫu quốc đỏ Nga-sô, vừa đầy tham vọng về danh lợi và quyền lực, nên Chính đã quên mất thân phận tay sai của mấy đầu nậu Việt gian trong tập đoàn Hồ chí Minh.
Khi cuộc đấu khẩu giữa Nga-xô và Tàu cộng ra công khai, có nghĩa là con bò đực Tàu cộng nay đã cường tráng, nó không chấp nhận vị thế đầu đàn của con bò đực Nga-xô, đã đẩy lũ bò Việt gian Hồ chí Minh vào thế khó xử. Một mặt Hồ luôn ghi nhớ hắn được đào tạo, được hỗ trợ mọi mặt từ kinh tế đến chính trị, tổ chức… để làm nhiệm vụ xây dựng các tổ chức tay sai bản xứ trong vùng Đông-Nam-á nhằm bao vây đảng Tàu cộng. Vì trong con mắt Kremlin, trong tương lai Tàu cộng sẽ là đối thủ đáng gờm nhất của ngôi vị mẫu quốc đỏ trên toàn thế giới của Nga-xô. Thêm nữa, Hồ còn có nhiệm vụ làm cái gạch nối giữa Bộ thuộc địa Nga-xô (Quốc tế 3) với đảng Việt gian, để đôn đốc việc nhuộm đỏ Đông dương với cái mặt mạ chống thực dân Pháp. Nghĩa là để hoàn toàn trở thành thuộc địa của Nga-xô.
Cuộc đảo chánh cung đình ở Nga-xô đã đưa Khrút-xốp lên cầm quyền và chủ trương chung sống hòa bình. Cái chủ trương chung sống hòa bình chỉ là một lối nói trong lúc bị hụt hơi vì lực bất tòng tâm trong tham vọng làm mẫu quốc toàn thế giới. Những quan điểm chính như chuyên chính vô sản; bạo lực cách mạng; phát triển hệ thống XHCN hãy còn đó thì làm sao có thể chung sống hòa bình lâu dài được. Đó chỉ là thay đổi chiến lược trong điều kiện cụ thể của Nga-xô trong thực thi chính sách bành trướng đỏ ra toàn thế giới mà thôi.
Lợi dụng thời cơ đó, con bò đực Tàu cộng lao ra giành ngôi vị đầu đàn.
Còn Hồ, một tên gián điệp chuyên nghiệp của Bộ thuộc địa Nga-xô, một tên KGB chính hiệu, cố lèo lái để tránh cơn điên của con bò đực Tàu cộng mà vẫn không lệch mục tiêu nhiệm vụ mà mẫu quốc Nga-xô đã lệnh cho hắn toàn quyền hành động từ năm 1930.
Cho nên, trong điều lệ đảng Việt gian cộng sản của khóa 2 (năm 1951), hoàn toàn phải dựa vào sự trợ giúp của Tàu cộng, nên Hồ cho ghi như sau:
“Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-ăngghen-Lênin-Xtalin và tư tưởng Mao trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng.” (Văn kiện đảng toàn tập – Tập 12 – Trang 444)
Và:
“Đảng Lao động Việt Nam nhận định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên-xô lãnh đạo.” (Sách đã dẫn – Trang 445)
Về đảng viên, Hồ cho ghi như sau:
“… đ) Luôn luôn cố gắng nâng cao trình độ chính trị, trau dồi tư tưởng của mình bằng cách học tập chủ nghĩa Mác-ăngghen-Lênin-Stalin và tư tưởng Mao trạch Đông.” (Sách đã dẫn – Trang 447)
Khi đã đặt xong ách nô lệ đỏ lên toàn phía Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở ra, và khi bên cạnh phủ chủ tịch của Hồ là phủ toàn quyền Nga-xô, núp dưới tên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền, có viên toàn quyền là thiếu tướng an ninh Nga-xô mang tên Serbakốp, thì trong cương lĩnh chung của đại hội kỳ 3 (1960), Hồ cho viết lại như sau:
“Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng rất coi trọng việc giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong Đảng, trong nhân dân một cách rộng rãi và thường xuyên, coi đó là điểm mấu chốt đầu tiên trong công tác xây dựng Đảng và là một trong những điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.” (Văn kiện đảng toàn tập – Tập 21 – Trang 777)
Như vậy là Hồ đã quăng cái gọi là tư tưởng Mao vào sọt rác.
Hồ còn cho rõ hơn trong đoạn văn:
“Đảng áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đứng đắn và sáng tạo, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa kinh nghiệm và của chủ nghĩa giáo điều. Đảng bảo vệ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, chống mọi luận điệu của chủ nghĩa xét lại.” (Sách đã dẫn – Trang 777-778).
Đoạn văn này biểu lộ Hồ muốn đứng giữa cuộc tranh luận của giáo điều (tức Mao) và xét lại (tức Khờ-rút-xốp), vì cuộc vũ trang bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ vào VNCH, Lào và Căm-bốt, nên không thể thẳng thừng chống Mao, mà cũng không thể tạo sự sơ hở để bị xuyên tạc là phản bội mẫu quốc đỏ Nga-xô, nên Hồ cho thong vào một câu rất ma giáo của kỹ thuật đu dây, rằng:
“… nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một thành viên của phe XHCN hùng mạnh do Liên-xô vĩ đại đứng đầu.” (Sách đã dẫn – Trang 780).
Chính vì bản chất là một con vẹt, nên Hoàng minh Chính, khi được Trường Chinh giao nhiệm vụ soạn thảo đề cương cho hội nghị trung ương lần 9 (khóa 3), thì cứ bê nguyên si cái tinh thần nô lệ cho Nga-xô đó vào đề cương, tấn công vào quan điểm thân Mao, làm gì có cái gọi là “đòi hỏi dân chủ” như Hoàng minh Chính và Vũ thư Hiên sau này bịa ra, để tô lại bộ mặt Việt gian, tay sai của Nga-xô, cho đỡ nhơ nhớp!!!
Dựa vào đề cương đó, Trường Chinh báo cáo cho Hồ. Sau khi được Hồ chỉ cho nước cờ phải đu dây để vừa lòng cả hai mẫu quốc, cũng như cho thấy tính ngu xuẩn và óc cơ hội của Hoàng minh Chính, Trường Chinh quăng cái “tác phẩm” con vẹt đó vào sọt rác và Hoàng minh Chính tất nhiên làm sao còn giữ được cái ghế Viện trưởng Marx-Lénine và hiệu phó trường Nguyễn ái Quốc. Ngỡ rằng mẫu quốc có thể dựa được để giữ ghế, Hoàng minh Chính đã nhờ người quen ở sứ quán Nga-xô in ra nhiều phiên bản cái dự thảo đề cương đó (một lối báo cáo khéo cho Nga-xô) và chẳng biết ai xui hay tự ý, đã đem phân phối cho những tên có gốc gác thờ Nga-xô, như Dương bạch Mai, Bùi cộng Trừng, Nguyễn văn Trấn, Lê Liêm, Trần văn Giàu v.v… hy vọng họ sẽ hậu thuẫn cho.
Cũng xin lưu ý rằng, thời kỳ đó, ở Hà-nội, những người thạo tin đều biết Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao là Vũ đình Huỳnh bất mãnh vì bị coi là thua chị kém em trong bậc thang quan lại đỏ. Con trai Vũ đình Huỳnh là Vũ thư Hiên, ỷ y vào cái quá khứ của thời kỳ 1945-1946, rằng cha được làm trong ban thư ký của Hồ; mẹ thì được Hồ “đặc biệt” tặng ảnh cá nhân có bút tích và chữ ký, và theo như Hiên khoe là Hiên đã được ngủ chung với Hồ, nên khi được qua Nga-xô học cũng như khi về nước, luôn luôn bắng nhắng ra vẻ quan trọng.
Hiên hay thì thọt với sứ quán Nga-xô và như chính Hiên cũng tự thú, là hay đi theo tên phó đại sứ của Nga-xô. Không biết từ cha đẻ hay từ sứ quán Nga-xô, hay do cả hai mà Vũ thư Hiên biến thành “liên lạc viên” – cái gạch nối – giữa những tên Việt gian trung thành với Nga-xô.
Trong “Đêm giữa ban ngày”, Vũ thư Hiên tự cho mình là “không làm chính trị”, nhưng lại lòi đuôi khi kể lể về sự thậm thụt với những Trần huy Liệu, Đặng kim Giang, Lê Liêm v.v… Và, những tên đó đều bộc lộ sự bất mãn hoặc nội dung những cuộc họp mà chúng được tham dự. Tại sao lại lạ vậy? Tại sao họ phải kể cho chú “nhí con” 30 tuổi cái thứ nguy hiểm đó?
Người viết những dòng này xin nhận là “nhân chứng” về nhiệm vụ của Vũ thư Hiên, là móc nối những người có chút tiếng tăm vào cái nhóm thân Nga-xô. Đó là một lần chúng tôi lại thăm cố nhạc sỹ Văn Cao thì gặp Vũ thư Hiên từ trên gác nhà Văn Cao hấp tấp chạy xuống. Tuy ở cùng phố và hai nhà chỉ cách nhau một đầu đường, tức là độ hơn 100 mét, nhưng tôi và Hiên hoàn toàn không muốn quen biết, dù cùng sinh hoạt chung trong một Hội nhà báo.
Vào đến nhà, thấy trên bàn có một chai rượu tây, cố nhạc sỹ Văn Cao, vẻ mặt quan trọng, bảo tôi:
“Thằng Hiên đem chai rượu của Huỳnh (tức Vũ đình Huỳnh) đến biếu. Bao nhiêu năm nay mình và Huỳnh chẳng có quan hệ gì.”
Tôi cảnh giác Văn Cao:
“Anh cẩn thận” “thằng tây con” đấy. Nó bắng nhắng và hay khoe khoang ra vẻ ta đây quan trọng, lại còn cái miệng ba hoa nữa. Tay Trần Hỗ, tổ trưởng của nó ở Báo ảnh, quen tôi, thường cười rằng lúc nào nó cũng hoang tưởng tự cho là con ông cháu cha và quan hệ toàn với cấp trung ương nên coi thường tổ chức.”
Văn Cao nói:
“Nó đi thay Huỳnh thôi, vì “lủy” (lui) muốn quan hệ với mình.”
Tôi khuyên Văn Cao:
“Anh đang bị bao vây đừng có dại mà cầm cờ cho bọn chúng. Ẩn mình mà xem khỉ vặt lông khỉ là hơn.”
Sau này khi nhóm cha con Vũ thư Hiên bị đi tù, cố nhạc sỹ Văn Cao vẫn luôn luôn cảm ơn tôi về “một lời khuyên sáng suốt” như chữ của Văn Cao dùng.
Cho đến bây giờ, ở hải ngoại, Vũ thư Hiên có làm chính trị hay không thì quá rõ ràng. Chẳng những Hiên làm chính trị mà còn say mê làm chính trị và có tài tổ chức là đằng khác. Chẳng thế đã có những kẻ cúi đầu nghe Hiên, moi tiền gửi về dâng các bạn của Hiên. Tiền đó đáng ra nên giúp cho phế binh QLVNCH còn bị đày đọa ở trong nước, vì đó là đồng đội và là đồng bào. Kẻ khác thì cúc cung theo hầu Hiên cho ra đời “chi nhánh của Mặt trận tổ quốc” nhằm gom người hải ngoại vào tổ chức. Đó là “văn phòng Hội chống tham nhũng” ở hải ngoại, có “lãnh tụ” là Trần Khuê và Phạm quế Dương.
So với Bùi Tín thì Vũ thư Hiên cao hơn một cái đầu. Hiên láu cá hơn và cũng qua kinh nghiệm khi bị tù nên cẩn thận hơn và ẩn náu kỹ hơn. Và, về thông tin trong lòng Việt gian cộng sản, cũng hơn Bùi Tín hàng chục lần. Cái sơ hở của Hiên là bệnh ba hoa còn nặng nên giấu đầu hở đuôi. Hơn nữa, đã nói láo, viết láo, nghĩa là với động cơ xấu, thì thời gian cũng làm cho bộ mặt thật lòi ra, như chúng tôi đã đưa bằng chứng trong cuốn “Những tên đặc công đỏ…”
Trong cuốn “Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam”, chúng tôi đã giành nhiều trang “bóc mẽ” Vũ thư Hiên, là tên trước khi đi tù vì làm Việt gian cho Nga-xô, được mệnh danh là “tây con bắng nhắng” và hay “nói phét như cuội”.
Từ khi “Đêm giữa ban ngày” của Vũ thư Hiên ra lò, thì mới có trò đánh tráo là tụi Việt gian thờ Nga-xô bị tập đoàn Hồ chí Minh kết tội là “xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài” biến thành “những người đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam”.
Xin đưa một dẫn chứng nữa để xem bọn chúng đấu tranh kiểu gì?
Cuối năm 1987, ngụy quyền cộng sản Pắc-bó cho tôi ra tù. Chẳng biết ai cho địa chỉ, Vũ thư Hiên đến làm quen với tôi, cũng tâm sự này nọ. (Sau này nghe nói là do Văn Cao, Dương Tường và Đỗ Hải (tức Hải béo) giới thiệu). Hiên mang tặng tôi cuốn hồi ký “Miền thơ ấu”, sau ngày Dương Tường tặng tôi tập thơ in chung với Lê Đạt. Báo Nhân dân giành 1 trang đánh Dương Tường. Sợ quá, Dương Tường chạy lại hỏi tôi:
“Ông ơi! Làm sao bây giờ?”.
Tôi bảo Dương Tường:
“Sợ cái đ… gì! Ông trên răng dưới dế. Cùng lắm là đi tù như tôi, càng đỡ phải “nuôi vợ nuôi con”, đỡ phải bán máu. Cụ Phan Khôi đã dạy rồi:
“Làm sao thì mặc làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi…”
Dương Tường hoàn hồn, ngồi một lúc bảo tôi:
“Thằng Hiên (Vũ thư Hiên) sắp ra Hà-nội cùng Hoàng minh Chính được Lê đức Thọ cho gặp. Nó muốn lại hỏi ý kiến của ông, nhưng nó hơi ngại vì thấy ông… làm sao ấy.”
Tôi nói:
“Xưa tôi vốn ghét cái bắng nhắng ra cái điều ta đây lá cốt cán cách mạng của nó. Nhưng nay nó thất thế ai còn chấp nhất làm gì.”
Mấy ngày sau, Vũ thư Hiên đến cho tôi biết là phải ra Hà-nội gặp Lê đức Thọ, mặt hớn hở có vẻ hy vọng lắm. Hiên nói:
“Chính (Hoàng minh Chính) nhắn vào là kỳ này chắc chắn Thọ (Lê đức Thọ) phục hồi cho bọn mình, kể cả đảng tịch.”
Tôi cười:
“Ông cả tin thế, còn Chính, già rồi mà cũng ngây thơ!”
Hiên lại gặng hỏi:
“Ông cho một lời khuyên.”
Tôi bảo Hiên:
“Tôi hiện không biết ông đang làm gì, cùng Chính âm mưu gì, và cũng không muốn biết. Ông thân tình hỏi thì xin gợi ý với ông thôi chứ đâu dám khuyên, nghe nó quan trọng quá đi. Tôi chỉ xin lưu ý với ông rằng, cả nhóm của ông xưa kia cộng lại, gồm Dương bạch Mai, Lê Liêm, Ung văn khiêm, Bùi công Trừng v.v… cũng không được một phần trăm cái thủ đoạn, cao tay ấn của Lê đức Thọ. Còn Hoàng minh Chính, tay này là một tên “prosovietique” (thân Nga-xô) đến mức “fanatique” (cuồng tín) như Nguyễn khắc Viện vậy. Ông muốn yên thân chờ thời cuộc, nuôi vợ con thì nên giữ khoảng cách với Chính, nếu không sẽ mất cả chì lẫn chài.”
Hiên lại hỏi:
“Vậy ông bảo tôi nên cư xử với Thọ ra sao?”
Tôi nói:
“Ông cũng hay đọc sách lắm mà cứ làm như Lưu Bị khi ở với Tào Tháo, trong Tam quốc ấy.”
Từ Hà-nội vào lại Sài-gòn, Hiên thăm tôi ngay và khoe:
-“Thọ, lủy (lui) tiếp mình và Chính cởi mở lắm. Bọn này nghĩ hắn thành thật đấy, nếu không ở cương vị ấy hắn cần gì phải đóng kịch.”
Tôi nhìn Hiên và thấy tội nghiệp cho anh ta: ngây thơ, mơ hồ, háo danh đến hết thuốc chữa. Tôi hỏi lại:
“Lão ta bù đắp cho Chính và ông như thế nào?”
Hiên tươi nét mặt:
“Kỳ này sẽ cải tổ chính phủ. Trước hết là bỏ cái danh xưng “chủ tịch hội đồng bộ trưởng”, trở lại là thủ tướng như cũ. Vũ Oanh sẽ làm thủ tướng và Thọ có ý cho Hoàng minh Chính một trong các ghế phó thủ tướng. Thọ có hỏi mình muốn giữ bộ nào. Mình nói xin được về suy nghĩ. Khi về, Chính gợi ý mình là phải nắm lấy Bộ công an, mình nghĩ Chính nói có lý. Nhờ ông phân tích xem có được không?”
Nghe Vũ thư Hiên nói, tôi không tin vào lỗ tai của mình. Nếu bỏ cái tính bắng nhắng hay khoe là đi và đứng lúc nào cũng cặp kè với mấy thằng Nga, nhất là thằng phó đại sứ, đi đường vác mặt lên như ta đây quan trọng thì quả thực Vũ thư Hiên cũng không đáng ghét. Tôi không thân với Hiên và thực lòng không muốn thân với Hiên, nhưng không thể nhìn hiên một lần nữa đâm đầu vào đá.
Tôi nói:
“Chuyện Vũ Oanh có thể làm thủ tướng, bạn học và rất thân với Vũ Oanh là Thiết Vũ mới kể cho tôi nghe tuần trước. Còn Thọ mà tha cho Chính về với vợ là may lắm rồi, chắc chắn không bao giờ Thọ dùng Chính nữa đâu, đừng có nằm mơ. Còn Thọ cho ông làm bộ trưởng mà lại làm bộ công an thì chắc phải kiếp sau ông Hiên ạ. Ông vốn là kẻ bị thất sủng và Thọ là người đã làm cho gia đình ông tan nát, giả dụ lão ta có nhớ đến tình đồng chí với ông cụ nhà ông thì cao lắm là cho ông cái chức Cục trưởng cục điện ảnh hoặc Giám đốc Nhà xuất bản ngoại văn là cùng. Làm gì có chuyện lão ta trao cho ông cái công cụ chuyên chính đó, mà nhờ nó lão đã cho cả bọn ông đi “tu huyền”!!!”
Nghe tôi nói, Hiên ngẩn mặt ra, rồi hỏi: “Vậy tôi phải trả lời Thọ và Chính ra sao?” Tôi nói: “Chính thì mặc kệ hắn. Hắn còn là trưởng bối của ông, sống bên cạnh trung ương mà còn ngu lâu đến mức tin tưởng rằng Thọ cho một lũ đệ tử thân cận đang là ủy viên trung ương vào tủ, cất đi, để mời Chính làm phó thủ tướng!!! Đúng là chuyện Phong thần còn dễ tin hơn. Nếu ông đã nghe mấy người cố vấn đến hỏi tôi, thì xin chân tình nói với ông là ông nên xin với Thọ là ông chỉ muốn làm kinh tế. Và vì nhu cầu con nhỏ, vợ ốm đau, ông xin Thọ tạo điều kiện để công an cho phép ông làm việc cho một công ty nước ngoài nào đó để có đồng lương khá hơn làm cho quốc doanh. Như thế ông sẽ yên thân và sau đó ra sao, phải làm gì thì ông tự lo lấy mà phải dẹp cái, ông đừng giận, háo danh thích người ta thờ mình.”
Không biết có phải do tôi không, cho đến trước khi tôi ra hải ngoại, Vũ thư Hiên lại chơi cho biết đang xin, nhưng chắc được, vì không sợ công an làm khó dễ, để giúp việc cho một công ty Đài loan.
(còn tiếp)
Lũ con buôn vịt trời - phần 2/2
Việt Thường
Lập lờ đánh lận con đen
“Đêm giữa ban ngày” của Vũ thư Hiên ra đời. Lúc đó tôi mới biết, sau khi tôi rời Sài-gòn, Vũ thư Hiên đã làm cho một công ty của Nga-xô và qua Nga-xô, viết cuốn “Đêm giữa ban ngày”, được Nguyễn minh Cần giới thiệu một cách khéo léo. Và, tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy không những câu chuyện “xét lại chống đảng” của nhóm Hoàng minh Chính, Vũ đình Huỳnh, Đặng kim Giang v.v… được Hiên phù phép thành “đấu tranh cho dân chủ” và Nguyễn minh Cần tự nhiên được Hiên kết nạp như là thành viên của nhóm “xét lại chống đảng”. Trường hợp của Nguyễn minh Cần là rất cá biệt, hoàn toàn chẳng dính líu đến “xét đi, xét lại” gì cả. Tôi giữ yên lặng, vì thấy một số bài, sách của Cần có tác dụng vạch tội tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, tuy rằng cái tồi cơ bản, là tội Việt gian của bọn chúng thì Cần chưa nhìn ra hoặc không dám nhìn ra. Nhưng khi thấy Nguyễn minh Cần, quay lại với cái bản chất Việt gian cộng sản, bằng ca ngợi tên đao phủ Trần Độ, ca ngợi lũ “trí thức hèn” ở Toronto, thì tôi buộc phải cho bạn đọc biết chút sự thật của việc Cần bỏ vợ là bí thư đảng ủy Việt gian cộng sản của Khu Hoàn kiếm, Hà-nội và lấy vợ Nga, xin làm công dân Nga-xô.
Những người làm việc ở báo Thủ đô Hà-nội của cái thuở Cần làm chủ nhiệm báo, hiện nay còn sống khá nhiều, đều biết rất rõ vụ này, như Yên Thao – hiện nay là chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ hài của Hà-nội; nhà thơ Phan thị Thanh Nhàn; phóng viên Lê tân Chế, Nguyễn Đĩnh v.v… Và, ngay trong là đơn khiếu nại của Hoàng minh Chính, có in kèm trong phụ lục cuốn Mặt thật của Bùi Tín, Chính nêu đủ các tên từ phó bí thư thành ủy Hà-nội (lúc đó Cần là thường vụ thành ủy) cho đến phó tổng biên tập báo Thủ đô Hà-nội (lúc đó Cần là xếp của báo), nhưng không hề nhắc đến tên Cần, kể cả Nguyễn văn Trấn trong “Gửi Mẹ và Quốc hội”, cũng chẳng nói gì đến Cần.
Việc Vũ thư Hiên đổi trắng thay đen khiến tôi nghĩ rằng Hiên đã được cho ra hải ngoại phụ giúp cho tên đặc công đỏ Bùi Tín, tìm cách móc nối các tên Việt gian thờ Nga-xô đang ở Nga và các nước thuộc khối chư hầu của Nga-xô xưa kia ở Đông-âu, để tạo ra một lực lượng, tìm cách bão hòa lực lượng chống cộng ở hải ngoại, bên Mỹ.
Vợ con Hiên vẫn ở lại Việt Nam, còn Hiên được một cháu gái của Trường Chinh (em họ Đặng xuân Kỳ) tháp tùng đi đây đi đó khắp Châu-âu. Ai ở Pháp, Thụy sĩ, Đức, Ba lan hẳn đều biết rõ chuyện này.
Nguyễn minh Cần được Hiên kết nạp vào nhóm “xét lại” vì quá khứ cũng khá huy hoàng khi còn nằm trong tổ chức Việt gian Hồ chí Minh.
Là người Huế, Cần đi theo Tố Hữu từ cái thuở 1945, khi Tố Hữu còn là bí thư thành ủy Huế của tổ chức Việt gian cộng sản Pắc-bó. Năm 1954, nhờ hiệp định Genève về Việt Nam, lũ Việt gian Pắc-bó lếch thếch kéo nhau về Hà-nội. Qua đại hội 2 (1951) của tập đoàn bán nước Hồ chí Minh, Tố Hữu trúng cử ủy viên dự khuyết trung ương và được Hồ cho làm phó cho Trường Chinh trong công tác tuyên huấn và cũng là phó cho Nguyễn chí Thanh của Tổng cục chính trị ngụy quân cộng sản.
Vào Hà-nội ít lâu, Tố Hữu được làm trưởng ban tuyên huấn trung ương. Tụi Việt gian cộng sản đứa nào cũng quan tâm đến việc tuyển tà lọt làm vây cánh. Cho nên Tố Hữu nhấc Nguyễn minh Cần từ bên Đoàn Thanh niên Cứu quốc (tiền thân của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ chí Minh hiện nay) về thành ủy Việt gian cộng sản ở Hà-nội, giữ chức ủy viên thường vụ, phụ trách trưởng ban tuyên huấn kiêm Chủ nhiệm báo Thủ đô Hà-nội (sau thôn tính báo Thời Mới của Hiền Nhân, đổi tên thành “Hà-nội mới” như hiện nay) được coi là “cơ quan ngôn luận của Thành ủy Hà-nội. Về tổ chức của Hà-nội Mới có Bùi hạnh Cẩn – quyền tổng biên tập; Phạm Việt – phó tổng biên tập (sau bị bắt về vụ án “xét lại”); Lê Hưng là bí thư đảng ủy Việt gian cộng sản của báo (xưa Lê Hưng là giám đốc Nhà xuất bản Hàn Thuyên, trở thành đệ tử của Trường Chinh).
Về chức vụ hành chánh, Nguyễn minh Cần là phó chủ tịch của Hà-nội. Vợ của Nguyễn minh Cần khi đó là bí thư đảng ủy Việt gian cộng sản Khu Hoàn Kiếm, là khu có tòa soạn và nhà in của báo Hà-nội Mới (nhà in Thérésa xưa kia).
Trong tòa soạn có một cô phiên dịch tiếng Pháp là H.D.T., nguyên nữ sinh trường các Mẹ dòng tu áo trắng, Notre Dame du Rosaire; đã có chồng con, tuổi ngoài 20. Nguyễn minh Cần đã dụ dỗ cô này và dùng quyền phó chủ tịch Hà-nội, định đưa vào quyền lực cá nhân và của vợ nhằm cho chồng cô phiên dịch đó đi cải tạo, vì là thuộc thành phần gia đình phản động, tư sản mại bản, vì gia đình cô đó ở Khu Hoàn Kiếm, Hà-nội.
Câu chuyện này được vài vị trong nhóm “Nhân văn – Giai phẩm” biết được, qua tin của một số anh chị em của báo Hà-nội Mới, bất mãn với hành động giết người không dao của Cần. Mọi người bàn nên làm đơn gửi Tố Hữu tố cáo Nguyễn minh Cần. Chính tôi có mặt ở đó, biết mình là hậu sinh, nhưng thấy các vị có mặt hôm đó vẫn còn mơ hồ về “người cộng sản”. Tôi trình bày rằng, các vị nên nhớ Cần là lá bài của Tố Hữu cấy chân rết vào Hà-nội. Tố Cần cho Tố Hữu thì chỉ có chết nhanh hơn mà thôi. Một gia đình và hạnh phúc của cô thông dịch chứ ngàn gia đình cũng chẳng nghĩa lý gì trong con mắt Tố Hữu. Chắc chắn hắn sẽ cứu Cần, như thế Cần càng trung thành với hắn hơn. Mấy vị lớn tuổi nghe ra và hỏi tôi:
“Vậy phải làm sao, chẳng lẽ chịu đi cải tạo đến chết ư?”
Tôi nêu ý kiến hỏi lại,
“Các vị có biết ai muốn giết thằng Nguyễn minh Cần Không?”
Tất cả lắc đầu. Tôi nói:
“Đó là Hồng Lĩnh, giám đốc Sở giáo dục (lúc đó) của Hà-nội, lại là ủy viên thành ủy, phó ban tuyên huấn thành ủy (Việt gian cộng sản); nghĩa là phó của Nguyễn minh Cần. Chỉ khi nào Cần đổ thì Hồng Lĩnh mới có thể lên cái ghế của Cần. Hơn nữa, nếu như Nguyễn minh Cần có Tố Hữu đỡ đầu, thì Hồng Lĩnh có quan thầy là Trần quang Huy, chức vụ trong đảng (Việt gian) là trưởng ban khoa giáo; chức vụ hành chính là bộ trưởng phủ thủ tướng, chủ nhiệm văn phòng văn giáo. Mà chắc ai cũng biết là giữa Huy và Tố Hữu, chúng ghét nhau như chó với mèo. Chắc chắn Huy sẽ không phải vì hạnh phúc gia đình cô thông dịch viên, mà vì đây là dịp ngàn năm một thuở để Huy chặt bớt một cái rễ của Tố Hữu và củng cố được cái rễ của Huy là Hồng Lĩnh.”
Mọi người tán thưởng và tôi chính là người chấp bút lá Đơn tố giác và đến nhà riêng Hồng Lĩnh, đưa tận tay.
Rất có thể Trần quang Huy đã báo cáo với Phạm văn Đồng nên chỉ ít ngày sau Nguyễn minh Cần bàn giao lại chức trưởng ban tuyên giáo và chức chủ nhiệm báo Hà-nội Mới cho Hồng Lĩnh, để chuyển qua phụ trách về nông nghiệp của thành phố.
Biết rằng đấy là quả đấm đầu tiên của Trần quang Huy, gạt Cần ra khỏi tòa soạn báo, để Hồng Lĩnh thông qua Bùi hạnh Cẩn và Lê Hưng tổ chức cho cơ quan “tố giác” Nguyễn minh Cần, và đuổi việc cô thông dịch viên. Bước tiếp có thể lột chức thường vụ thành ủy và phó chủ tịch, nhất là vợ Cần cũng rất căm giận Cần.
Tố Hữu vội ra tay cứu đệ tử, cử Nguyễn minh Cần đi Nga-xô học, hy vọng về sẽ tiến thân trong ngành tuyên huấn trung ương do Tố Hữu cầm đầu.
Vừa xấu hổ, mà chắc cũng “hối hận” nên Cần điện thoại về Hà-nội xin lỗi vợ, ở lại Nga-xô lấy vợ và… tu theo Phật cho đến nay.
Nhóm “xét lại” thứ thiệt cư trú tại Nga-xô như Lê vinh Quốc, Văn Doãn… có ai ráp lại với Hiên đâu. Chỉ có Cần, sau khi thực dân đỏ Nga-xô sụp đổ, có liên hệ với một số người Việt tỵ nạn bên Mỹ, viết sách chung với Ngô nhân Dụng chẳng hạn. Và, từ đó Nguyễn minh Cầøn được Thông luận thổi lên đến mức có lúc phong cho Cần là “nguyên bí thư thành ủy Hà-nội”!!! Xin lưu ý rằng, giữa “thường vụ” và “bí thư”, mối quan hệ như chủ với người giúp việc được tin cẩn mà thôi.
Chẳng những cộng đồng người Việt tỵ nạn (cộng sản) ở hải ngoại bị bè lũ Vũ thư Hiên – Nguyễn minh Cần lừa, mà ngay trong nước cũng chỉ rất ít người (chủ yếu trong giới báo chí, văn nghệ hay… nhiều chuyện mới biết mà thôi) được biết, vì chính sách bưng bít thông tin và tiêu chí “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại” của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Cho nên thế hệ trẻ ở trong nước đến nay vẫn mù tịt, còn ngoài nước thì làm sao hiểu được, nhất là lại bị lũ truyền thông bất lương, cờ trắng (vì chúng chối bỏ quốc kỳ VN – nền Vàng Ba Sọc Đỏ – nhưng chưa dám đưa cờ Việt gian, nền đỏ sao vàng, sợ bị ăn đòn như tên Trần Trường) a dua theo hai tên đặc công đỏ Bùi Tín, Vũ thư Hiên và tên phản bội Đoàn viết Hoạt v.v… để “đổi trắng thay đen”, có lợi cho tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó.
Tác hại của những tên đặc công đỏ và những tên cờ trắng gây ra nguy hiểm đến mức, một nhà nghiên cứu về tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh hàng vài chục năm nay, như ông Minh Võ, còn hạ bút viết những điều hoàn toàn sai với sự thật. Thí dụ: Trong bài có tên “Hoàng minh Chính và chủ nghĩa xét lại” của ông Minh Võ, được Người Việt Online đưa lên từ 9/9/2005, và ngâm đến hơn 2 tuần lễ mới rút, đã phơi bày nhiều cái sai trầm trọng:
* Chẳng biết ông Minh Võ, chỉ nghe nói hay thực sự hiểu biết về vụ án Hoàng minh Chính đến cỡ nào, đã bốc thơm rằng:
“Người cộng sản Việt Nam đầu tiên có tư tưởng xét lại, có can đảm, vị thế và cơ hội để triển khai tư tưởng đó thành những đề xuất thực tiễn có thể nói là Hoàng minh Chính.”
Bài viết của Minh Võ với những lời bốc thơm bên trên làm cho anh chàng chính trị cơ hội Hoàng minh Chính, lúc này đang có mặt trên đất Mỹ, thêm “can đảm, vị thế và cơ hội” để chỉ đạo tổ chức cuộc họp, sẽ có tên “tiểu Diên hồng” do Chính đề xuất, gồm 3 thành phần: đại diện tập đoàn Việt gian Pắc bó; trí thức hải ngoại (chắc là gồm những tên như Đoàn viết Hoạt – một thứ nón tai bèo thành thị của những năm trước 1975, đã được Võ văn Kiệt mới đây công khai tuyên dương công trạng; Bùi Diễm, con trai Việt gian Bùi Kỷ, nguyên chủ tịch hội hữu nghị Việt-Trung của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh; Nguyễn gia Kiểng, sáng lập viên của “chủ nghĩa Lê chiêu Thống”, một thứ Chí Phèo ở Paris và v.v…); trí thức trong nước (chắc là gồm các anh cò mồi, dân chủ cuội như Trần Khuê – tác giả chủ nghĩa Hồ chí Minh, và những me-xừ kiểu Nguyễn thanh Giang, Phạm quế Dương, …), còn thứ thiệt như Phạm hồng Sơn, Nguyễn vũ Bình, Nguyễn khắc Toàn còn nằm tù, làm sao được mời họp!!!
Nhìn vào 3 cái thành phần đó, dù kém thông minh đến đâu cũng hiểu nó đại diện cho ai và tất yếu nó sẽ đi theo con đường mà nghị quyết 36 của tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó vạch ra. Chẳng biết trong cái hội nghị “Tiểu, tiểu gì đó”, nhà nghiên cứu Minh Võ có được chiếu cố cho một chỗ ở góc chiếu không, và có học tập cái “can đảm” của Hoàng minh Chính mà dám nhận lời dự họp không???!!!
* Minh Võ cũng bạo tay viết rằng:
“Dân miền Bắc lúc ấy ai có radio thì được biết phần nào qua đài Bắc kinh phần Việt ngữ. Những nhà trí thức cũng qua đài này nhận ra sự rạn nứt trong khối cộng sản Quốc tế. Và họ muốn ngả theo Liên-xô vì cho rằng theo đường lối xét lại của Khrutshchev sẽ tránh được chiến tranh với siêu cường Mỹ.”
Minh Võ viết đoạn này, nhằm bổ xung cho đoạn bốc thơm Hoàng minh Chính ở đoạn trên, để “tăng thêm” cho Hoàng minh Chính ngả theo Nga-xô vì… không muốn chiến tranh, nghĩa là không muốn tập đoàn Pắc bó Hồ chí Minh vũ trang xâm lược VNCH. Thế thì Hoàng minh Chính, nhờ công của Minh Võ – nếu như quả thật là thế – đáng được nhân dân VNCH (trong đó có người Việt tỵ nạn xâm lược đỏ, ở hải ngoại) và nhân dân miền Bắc Việt Nam (khỏi bị đi ngụy quân cộng sản làm bia đỡ đạn, chết cho chiến lược bành trướng đỏ của Nga-xô rồi) hoan hô thật lớn và thờ làm lãnh tụ!!!
Nếu quả Hoàng minh Chính yêu hòa bình, chống chiến tranh (xâm lược) thì sao Chính có thể ngoác miệng ca ngợi Trần Độ, rồi lại khóc thương tưởng niệm tên đao phủ Trần Độ, kẻ đã có 15 năm thâm nhập vào đất nước VNCH, chỉ đạo trực tiếp cuộc chiến xâm lược. Và, cho đến lúc này, Chính vẫn ca ngợi lũ sát nhân, bán nước Võ nguyên Giáp, Nguyễn nam Khánh, Hoàng minh Thảo và v.v… mà tất cả bọn chúng lên cấp tướng đều nhớ thành tích tàn phá làng mạc, giết dân VNCH???!!!
Thực ra, Minh Võ cũng chẳng tin lắm vào cái nội dung bốc thơm đó, nên hạ bút theo công thức của mấy anh thày bói sờ voi là “thằng mù hỏi thăm đường thằng thong manh”. Đó là, Minh Võ – không nói trích từ đâu – lời của nữ ký giả Judy Stow từng là đặc phái viên của BBC ở Đông Nam á, sau làm trưởng ban Việt ngữ của đài BBC, “đã gọi Hoàng minh Chính là cha đẻ của chủ nghĩa xét lại Việt Nam”.
Là người Việt Nam, lại là sỹ quan trong quân lực VNCH, nghĩa là người có nhiệm vụ đánh trực diện với quân xâm lược Việt gian Pắc bó trên trận tuyến thông tin và tư tưởng, vậy mà chuyện về Việt Nam lại phải dựa vào tai, mắt và cách suy nghĩ của người nước ngoài. Tự thân cứ trói đầu trong cái vòng kim cô nô lệ, thần phục nước ngoài.
Cái đài BBC cũng chẳng ít lần đưa tin vịt. Lấy thí dụ trong cuộc Việt gian ngụy quân Pắc bó xâm lược VNCH năm 1975, Nha trang vẫn còn trong vòng kiểm soát của VNCH thì đài BBC đã la ó ầm lên là Nha trang thất thủ. Cái ấy có lợi cho ai, chắc chẳng cần phải chỉ bảo, ông Minh Võ đủ trí khôn để biết!!!
Còn trong vụ Hoàng minh Chính, nói như Judy Stow – nếu có việc nói đó –, thì đúng là vừa sai, vừa bố láo!!! “cha đẻ của chủ nghĩa xét lại Việt Nam” bằng văn bản hẳn hoi là Nguyễn khoa Minh (chắc cả Judy Stow lẫn Minh Võ cũng mù tịt, không biết Nguyễn khoa Minh là ai).
Nguyễn khoa Minh, trước 1954, từng là bí thư tỉnh ủy Việt gian cộng sản ở Quảng-ngãi. Hội nghị công đoàn thế giới đỏ, họp ở Bình nhưỡng thời Kim nhật Thành, Nguyễn khoa Minh đã tháp tùng Hoàng quốc Việt đi dự hội nghị. Năm 1954, vào Hà-nội, theo gương Mao do phó toàn quyền La quý Ba, núp dưới danh xưng đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Tàu cộng bên cạnh chính phủ Việt gian Hồ chí Minh, chỉ đạo nên cái gọi là trường Đại học Nhân dân ra đời tại khu Đấu sảo của Hà-nội xưa.
Trong cuốn “Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho VN”, chúng tôi có nói rõ hơn về cái trường này vì nó liên quan đến hai tên cuội đỏ là Nguyễn văn Trấn – tác giả “Gửi Mẹ và Quốc hội” và Trần Khuê – “giáo sư” kiểu “Xuân tóc đỏ” của Vũ trọng Phụng, tác giả “chủ nghĩa Hồ chí Minh”. Nguyễn khoa Minh được chọn làm trưởng phòng giáo vụ của cái trường đại học bố láo này.
Cuối năm 1956, Nguyễn khoa Minh được cử qua Nga-xô học về triết học. Còn chưa về nước mà Nguyễn khoa Minh đã nhận được quyết định làm Giám đốc trường Đại học tổng hợp Hà-nội. Nhưng vì luận án tiến sỹ triết mà Nguyễn khoa Minh làm là “Đảng toàn dân”, nghĩa là phát triển quan điểm của Khơ-rút-xốp vào tình hình Việt Nam. Nói một cách khác là đem chủ nghĩa xét lại hiện đại của Nga-xô ứng dụng vào Việt Nam. Vì thế Nguyễn khoa Minh đã rớt đài và Nguỵ như Kông Tum được cái ghế giám đốc của Nguyễn khoa Minh bỏ lại.
Người thứ hai cũng thường lặp lại quan điểm của Khơ-rút-xốp và còn cho in và phát hành là Minh Tranh, giám đốc nhà xuất bản Sự thật.
Người thứ ba là Ung văn Khiêm, vì một sai sót trong văn bản ngoại giao cộng với vụ bê bối tai tiếng vì nhí nhố với bà quả phụ của cố bộ trưởng nông nghiệp Huỳnh văn Lộc, bị vợ đánh ghen. Dân hàng phố náo nhiệt ra xem, chính nhà văn Tô Hoài, lúc đó là tổ trưởng dân phố, được mời ra làm biên bản, nhưng Tô Hoài giả vờ ra giữ trật tự, trao việc lại cho tổ phó và lủi như “dế mèn phiêu lưu ký”. Ung văn Khiêm bị chuyển từ bộ ngoại giao sang làm bộ trưởng nội vụ và bà quả phụ còn mặn mà kia được Tố Hữu ghép đôi cho nhà văn… nô Hoài Thanh, để làm việc đổ vỏ cho trung ương ăn ốc. Chính khi ở cái ghế bộ trưởng nội vụ này mà trong lúc rượu… tây vào, lời ra, Ung văn Khiêm đã cao hứng ca ngợi thuyết “Đảng toàn dân” của Nguyễn khoa Minh, nghĩa là ca ngợi quan điểm “xét lại hiện đại” của Khơ-rút-xốp.
Còn phải kể đến một số nữa như Bùi công Trừng, Nguyễn văn Vịnh. Và, ngành điện ảnh thì có Trần Công, cũng đi trước Hoàng minh Chính, khi ca ngợi dòng điện ảnh xét lại hiện đại như các phim “Bài ca người lính”, “Đêm thứ 12”, “Đàn sếu bay qua” v.v…
Điều kỳ lạ là ông Minh Võ là một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, không phải là người thừa thời giờ thì đọc qua quít hoặc lượm nhặt thông tin trong các quán nhậu, phòng trà, tiệm hớt tóc chứ không có thời gian đọc nghiêm chỉnh kiểu nhà nghiên cứu. Thế mà, Minh Võ viết lại nguyên văn bài trả lời “cuộc phỏng vấn của Hoàng minh Chính dành cho nhà báo Ba lan Bader được đăng trên tờ Gazeta Wyborcza ngày 21/4/1995, có đoạn Hoàng minh Chính nói láo không thể tưởng tượng nổi, như sau:
“Trong cuộc phỏng vấn này, Hoàng minh Chính cho biết ông đã thôi không còn là người cộng sản nữa kể từ khi ông theo học về chủ nghĩa Mác-Lênin ở Mạc-tư-khoa và “suốt ba năm rưỡi khi tôi làm viện trưởng (Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin), viện là nơi có tự do dân chủ nhất. Tôi tuyên truyền tư tưởng (mà người ta cho là) xét lại.”
Để làm cho rõ hơn về đoạn văn trên thì có nghĩa là Hoàng minh Chính khoe đã “thôi là người cộng sản” từ khoảng 1957 – là năm Chính được cho qua Nga-xô học, đến năm 1960 – là năm Chính về nước.
“Thôi làm người cộng sản” là lối nói của tên bài tây ba lá, bởi vì như thế có nghĩa là về hình thức thì Hoàng minh Chính vẫn còn là đảng viên cộng sản. Nhưng trong suy nghĩ và hành động thì không phải là người cộng sản???!!!
Cả Hoàng minh Chính lẫn Minh Võ không đưa được dẫn chứng cụ thể nào rằng Chính “thôi là người cộng sản” trong thời gian 1957-1960.
Trong khi đó, căn cứ vào sự nói láo của Chính, Minh Võ đã hạ bút như sau:
“Khi Hoàng minh Chính được trao nhiệm vụ soạn thảo báo cáo chính trị trong hội nghị 9 cho Trường Chinh, ông ta đã viết theo luận điệu của Khrutshchev nên bài của ông không được chấp nhận.”
Ai cũng có thể biết rất dễ dàng rằng: Khrutshchev là bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương của đảng cộng sản Nga-xô, kiêm chủ tịch hội đồng bộ trưởng Nga-xô. Nghĩa là Khrutshchev là một thứ “cố nội cộng sản” của hầu hết những tên cộng sản trên thế giới, loại trừ những tên đi theo đối thủ của hắn là “cộng sản họ Mao” ở Tàu cộng. Dù là xét lại hay giáo điều thì cũng đều là cộng sản như cách diễn tả trên tờ Nouvel Observateur khi ấy, là trên bộ mặt râu ria của Marx, Mao trạch Đông là con mắt trái (tức quan điểm tả khuynh) và Khrutshchev là con mắt phải (tức quan điểm hữu khuynh), hai bên chửi nhau qua cái sống mũi của Marx mà thôi. Nghĩa là cùng là cộng sản cả.
Nhu vậy thử hỏi ông Minh Võ, khi ông hạ bút rằng Chính “đã viết theo luận điệu của Khrutshchev” thì như thế, cả tư duy lẫn hành động của Chính là cộng sản hay không cộng sản???
Suốt 3 năm học chủ nghĩa Mác-Lênin ở Nga-xô mà “thôi là người cộng sản” thì Hoàng minh Chính là người gì?
“Thôi là người cộng sản” mà trở về nước lại được giữ ghế viện trưởng Viện Mác-Lênin? Lại là phó giám đốc trường Nguyễn ái Quốc là trường chuyên dạy về chủ nghĩa Mác-Lênin và các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội? Lại đứng trên bục giảng nhiều năm để chửi “đế quốc Mỹ, chửi tụi phi vô sản, chửi tụi Trốtskit v.v…? Và, ngay cái tập bản thảo 200 trang đánh máy mà Chính, sau này, khoe có tựa đề “Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam” thì cũng là đứng trên quan điểm xét lại (tức quan điểm của Nga-xô) để phê phán giáo điều (tức quan điểm của Tàu cộng).
Chẳng qua chỉ có lũ vừa ngu và vừa mù, lũ học vẹt, lũ trí thức mọt sách – ăn chữ vào bụng chứ không vào đầu – mới không thấy rằng Nga-xô và Tàu cộng dùng cái cớ cãi nhau về quan điểm, lý luận nhằm che đậy cái nội dung thực là tập hợp bè phái, tay sai để tranh nhau cái ghế mẫu quốc đỏ ở ngôi vị thứ nhất mà thôi.
Còn nói rằng quan điểm của Khrutshchev là “quan điểm chung sống hòa bình” thì chỉ có đứa nhỏ mất trí mới tin.
Trong thực tế khi Khrutshchev cầm quyền, tình hình thế giới ra sao? Cuba được Nga-xô viện trợ đã đem quân đi nhuộm đỏ một số nước ở Châu Phi. Khrutshchev rút giày đập trên bục ở Liên hiệp quốc la hét kiểu cô-dắc đe dọa thế giới; dọa đặt tên lửa ở Cuba hướng vào Mỹ; đã đối xử như thế nào với các nước chư hầu; vẫn tiếp tục đào tạo và viện trợ về quân sự cho tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh làm chiến tranh trên cả 3 nước Đông dương và còn giúp tụi Sơn ngọc Thành làm loạn ở Thái lan.
Còn Tàu cộng mà bị coi là hiếu chiến thì cũng làm trò xiếc trong hội nghị Băng đung bằng chính sách “chung sống hòa bình 5 điểm” nghĩa là cũng hòa bình đấy!!!
Đến giờ phút này mà vẫn còn tin vào những tuyên bố của tụi thống trị mẫu quốc thực dân đỏ thì đúng là ngu quá lâu, chắc hẳn bò và lừa cũng xin chịu thua. Hãy làm quen với phong cách nhìn vào thực tế hành động.
Tổ tiên ta đã cảnh giác “loại mặt nguờì dạ thú”. Vậy làm thế nào để phân biệt? Chỉ có một cách duy nhất là nhìn vào hành động của họ, kết quả hành động mới giúp ta nhìn rõ ai là người, ai chỉ có mặt người còn dạ là thú!
Để thuyết phục người đọc, nhà nghiên cứu Minh Võ không biết có phải vì tuổi đã cao mà lú lẫn hay uống thuốc liều hay vì một nguyên nhân không minh bạch nào đó, đã xuyên tạc một cách trắng trợn rằng:
“Võ nguyên Giáp, Nguyễn duy Trinh, Lê thanh Nghị bị đẩy ra khỏi bộ chính trị từ đại hội đảng kỳ 3”. “Đảng” nào vậy? Chỉ có tụi Việt gian cộng sản mới dùng chữ “đảng” để độc quyền nói về cái đảng Việt gian Pắc bó. Còn không phải cộng sản, nếu nghiêm chỉnh thì nên viết cho đúng là “đảng lao động VN” – hậu thân của đảng cộng sản Đông dương. Người thường có thể bỏ qua được, còn mang danh là nhà nghiên cứu thì đừng nên viết cái lối lộn xộn, bát nháo như vậy, thưa ông Minh Võ!
Chẳng qua ông Minh Võ chót đội Hoàng minh Chính lên nên, đâm lao phải theo lao, bèn hạ bút tìm mọi cách nâng tầm quan trọng của vụ án Hoàng minh Chính, gắn nó vào mấy nhân vật Việt gian cộng sản ở bậc thang “lãnh tụ” trong chế độ thực dân đỏ Hồ chí Minh!!!
Đối tượng mà ông Minh Võ nhắm vào chắc chủ yếu là thế hệ trẻ của Cộng đồng người Việt tỵ nạn cuộc xâm lăng của thực dân đỏ, thông qua ngụy quân cộng sản Việt gian, ở Việt Nam.
Nếu vì lớn tuổi, bắt đầu hồ đồ, thì xin giúp ông Minh Võ chút tài liệu:
- Kết quả cuộc bầu bán trong đại hội Việt gian cộng sản lần thứ 3 (năm 1960) ở Hà-nội, Võ nguyên Giáp và Nguyễn duy Trinh (mà ông viết là bị loại ra khỏi bộ chính trị) là hai người trong số 9 người được 100% phiếu bàu. Và, Lê thanh Nghị (ông cũng cho là bị loại) là một trong số 31 người được 95% phiếu bàu trở lên.
9 người được 100% phiếu bàu, xếp thứ tự như sau:
1) Hồ chí Minh
2) Lê Duẩn
3) Võ nguyên Giáp
4) Phạm Hùng
5) Nguyễn duy Trinh
6) Nguyễn chí Thanh
7) Tôn đức Thắng
8) Chu văn Tấn
9) Nguyễn văn Linh
Và Lê thanh Nghị đúng thứ 10 trong số 31 tên trúng 95% phiếu bầu trở lên. (Tham khảo “Văn kiện đảng toàn tập”, tập 21, trang 906-907)
Về sau, trong ngụy quyền Việt gian Hồ chí Minh, Võ nguyên Giáp giữ ghế phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng; Nguyễn duy Trinh cũng phó thủ tướng, bộ trưởng ngoại giao và Lê thanh Nghị là phó thủ tướng, chủ nhiệm ủy ban kế hoạch.
Năm 1973, Nguyễn duy Trinh cũng vẫn là phó thủ tướng, bộ trưởng ngoại giao của ngụy quyền Việt gian Pắc bó, ký vào hiệp định Paris 1973 về Việt Nam, nữa kia đấy, thưa ông Minh Võ!!!
Sau khi vũ trang xâm lược xong nước VNCH năm 1975, đến 1976 tập đoàn Việt gian Lê Duẩn cho mở đại hội đảng Việt gian bán nước của chúng và kết quả như sau:
- Lê Duẩn: tổng bí thư
Bộ chính trị gồm:
14 ủy viên chính thức, thứ tự như sau:
1) Lê Duẩn
2) Trường Chinh
3) Phạm văn Đồng
4) Phạm Hùng
5) Lê đức Thọ
* 6) Võ nguyên Giáp
* 7) Nguyễn duy Trinh
* 8) Lê thanh Nghị
9) Trần quốc Hoàn
10) Văn tiến Dũng
11) Lê văn Lương
12) Nguyễn văn Linh
13) Võ chí Công
14) Chu huy Mân
3 ủy viên dự khuyết, thứ tự như sau:
1) Tố Hữu
2) Võ văn Kiệt
3) Đỗ Mười
(Tham khảo: “Văn kiện đảng toàn tập”, tập 37, trang 976-977)
Ông Minh Võ chắc học theo phong cách “Hoàng minh Chính” nên tập tọng cái trò “viết láo” miễn là đạt được mục đích yêu cầu. Thí dụ Hoàng minh Chính, hắn dư biết chức vụ của bè lũ Việt gian Pắc bó, nhưng để nâng cao tầm quan trọng cho nhóm Việt gian thờ Nga-xô làm chủ, trong đó có hắn, cũng tự ý nâng cấp trong bậc thang quan lại đỏ cho bọn chúng. Những Lê Liêm, Bùi công Trừng v.v… chỉ là ủy viên dự khuyết của trung ương đảng Việt gian Pắc bó thì Chính nâng lên là “ủy viên trung ương” (tức chính thức); cái chức viện trưởng của Hoàng minh Chính cũng chỉ tương đương thứ trưởng loại 2; còn Vũ đình Huỳnh, là thư ký của họ Hồ cái thuở 1945-1946, cùng thời với Vũ Kỳ, là thư ký từ đó cho đến khi Hồ chết. Chưa ai gọi Vũ Kỳ là trợ lý của Hồ, cũng chưa ai gọi Vũ đình Huỳnh là trợ lý của Hồ, loại trừ Hoàng minh Chính và đồng bọn với lũ cờ trắng và lũ truyền thông bất lương, thày bói sờ voi ở hải ngoại!
Cho nên ông Minh Võ đã xếp cái tên “liên lạc viên” của nhóm Việt gian trung thành với Nga-xô, là Vũ thư Hiên, thành một nhân vật nổi tiếng, xếp ngang với những Tú Xương, Nguyễn Bính, Vũ hoàng Chương, Khái Hưng, Trần Dần, Đặng thế Phong và Văn Cao!!!
Nên dừng lại thôi, nhà nghiên cứu Minh Võ, ông bắt đầu viết láo quá rồi đấy! Đừng tự tay xóa bỏ công trình viết lách cả một đời của ông, để rồi mãi mãi bị các đời sau phỉ nhổ như là một bồi bút, một nhà nghiên cứu thiếu lương thiện!!!
Dù sao cũng là một nhà nghiên cứu có nhiều công trình giá trị, lại là một sỹ quan QLVNCH, chẳng lẽ ông Minh Võ muốn học ông thày bói mà trong “Đêm giữa ban ngày”, Vũ thư Hiên trắng trợn bịa rằng ông thày bói được “thánh” chỉ dẫn cho biết Hiên là “quới nhân””!!! (trong hàng ngũ Việt gian bán nước cho Nga-xô)!
Tại sao những đứa bị gọi là “xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”, đứa nào bị bắt tù hoặc quản chế thì thôi, số nào trốn được đều qua Nga-xô cư trú, mà không đứa nào trốn qua Tàu cộng? Tại sao Hoàng văn Hoan chữa bệnh ở Đông Đức, không bỏ trốn qua Nga-xô mà lại quay về trốn qua Tàu cộng, cả Chu văn Tấn, Lê quảng Ba v.v…, cũng vậy?
Đấy là bằng chứng rõ ràng rằng đứa nào thờ Nga-xô thì được Nga-xô che chở, còn đứa nào thờ Tàu cộng thì được Tàu cộng che chở, đúng kiểu “chó nhà nào chạy về nhà nấy, chủ nuôi!!!”
Như thế sẽ lại xảy ra một câu hỏi, là tại sao nếu Hồ một lòng một dạ trung thành với Nga-xô, sao Nga-xô còn dung túng cho bọn cũng thờ Nga-xô mà chống Hồ?
Xin thưa rằng, ở hoàn cảnh Hồ lúc đó có rất nhiều khó khăn do cuộc đấu đá của Nga-xô và Tàu cộng gây nên. Không có Tàu cộng thì hàng viện trợ của Nga-xô và chư hầu Đông-âu của Nga-xô lúc đó sẽ khó khăn như thế nào để chuyển tới Bắc Việt Nam cho Hồ. Nếu không có viện trợ đó thì làm sao Hồ và cái đảng Việt gian của hắn có thể hoàn thành nhiệm vụ mà Nga-xô trao cho từ 1930 là phải bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ ra 3 nước ở Đông dương?(!)
Hiểu được điều đó, nên Nga-xô không thể không giúp Hồ, cho nên âm mưu đảo chính cung đình của Dương bạch Mai mới được chuyển cho Hồ biết, để Hồ kịp thời “làm thịt” Dương bạch Mai và vô hiệu hóa cả đám. Hồ cũng không làm quá găng vì dù sao chúng cũng là tay sai của Nga-xô – loại thất thế – nên đứa nào trốn được qua Nga-xô thì lờ đi cho yên chuyện. Còn phía Nga-xô cũng đảm bảo để lũ tay sai đó im mồm, an phận sống trên đất mẫu quốc đỏ cho đến hết đời.
Hồ biết được giá trị của hắn trong con mắt Kremlin, cho nên một số khác còn ở trong nước, Hồ trao cho Lê đức Thọ và Trần quốc Hoàn trừng trị, theo mức độ khác nhau. Tỷ dụ như bọn Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Lê Liêm và Nguyễn văn Vịnh chỉ bị tước quyền, còn hưởng thụ vật chất vẫn như cũ. Bọn chúng vẫn ở vi-la, vẫn xe hơi và vẫn thẻ cung cấp đặc biệt cũng như vẫn còn cần vụ hầu hạ và lái xe. Con cái vẫn được đi học ở nước ngoài. Hoàn toàn khác với vụ án “Nhân văn – giai phẩm”, không một ai được những ưu ái đó.
Riêng bọn Hoàng minh Chính, Đặng kim Giang, Vũ đình Huỳnh v.v… bị bỏ tù như tù ăn trộm, ăn cướp, chỉ vì khi bị bắt, Hoàng minh Chính đã khai, mà ngay trong hồi ký của Vũ thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, cũng thừa nhận. Hiên viết:
“Cứ như sự giải thích của Ban tư tưởng – Văn hóa Trung ương Đảng khóa VI (1986-1991) vào tháng 11-1991 thì từ đầu những năm 1960 Đảng đã phát hiện một nhóm chống Đảng mà hạt nhân gồm 3 người: Đặng kim Giang, Vũ đình Huỳnh, Hoàng minh Chính; rằng nhóm này từ tháng 9-1963 đã chủ trương phá hoại hội nghị Trung ương lần 9, âm mưu truất bỏ Trung ương nhằm lập ra một trung ương mới.
Để tăng thêm tính thuyết phục người ta dẫn đoạn trích lời khai của Hoàng minh Chính: “Ngay từ khi mới thành lập, tổ này (tổ lãnh đạo 3 người) đã mang đầy đủ tính chất và nhiệm vụ của Ban chấp hành Trung ương tương lai” mà mục tiêu là “truất bỏ trung ương đi, quyết định ra đường lối mới và bàu Trung ương mới để điều hành.”
(Trích từ “Đêm giữa ban ngày” của Vũ thư Hiên, nhà xuất bản Văn nghệ, California – 1977 – trang 340)
Xin bạn đọc hãy nhận diện cho rõ về Hoàng minh Chính, kẻ được ông Minh Võ thổi lên là “can đảm”, trong thực tế khi vô tù đã hèn như thế nào, để cung khai trọn vẹn cho công an Việt gian Hồ chí Minh. Nghĩa là Hoàng minh Chính đã bán những đồng bọn chung vụ với hắn, hy vọng… được Hồ tha thứ!!! Hắn tưởng với số lượng vài trăm người chung vụ của hắn sẽ làm Hồ chùn tay và tha thứ vì hắn đã thành khẩn chăng? Chính đã lầm to!
Hồ dám bán cụ Phan bội Châu, bán cuộc khởi nghĩa của Nguyễn thái Học, bán đồng chí của hắn là Lê hồng Phong, Phùng chí Kiên; bán hàng trăm gia đình và bản thân các thanh niên bị tổ chức của hắn dụ khị, như thư tố cáo với Bộ thuộc địa Nga-xô (Quốc tế 3) của Hà huy tập; hắn cho giết những người đàn bà mà hắn từng đầu gối, tay ấp v.v…, hắn cho giết biết bao người có công trong tổ chức của hắn trong “chỉnh đốn tổ chức”, “cải cách ruộng đất” v.v… thì hơn hai trăm tên dám dựa vào Serbacốp, tên đại sứ (tức toàn quyền) Nga-xô để làm hỏng nước cờ đu dây của hắn, có nghĩa lý gì!
Hoàng minh Chính cả đời lầm vì sự ngu dốt khác thường của hắn, cộng với sự cực đoan cuồng tín và hám danh đến mức điên cuồng, sẵn sàng làm việc cho bất kể thế lực ngoại bang nào, cho bất kể tập đoàn Việt gian cộng sản nào đang nắm quyền.
Phương án “Tiểu diên hồng”
Bài phát biểu trong hội nghị Họp mặt dân chủ 2005, Hoàng minh Chính đã tự khai như sau:
“… tôi đã viết bản Tiểu Diên Hồng – Bàn tròn ba bên gửi lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và Nhà nước vào ngày 14-7-1995 từ trại giam ở Hà-nội”
Nội dung cái “Tiểu diên hồng” ấy được Hoàng minh Chính giải thích như sau:
“Tôi đề nghị lập một bàn tròn ba bên gồm có một bên là đại diện Đảng, bên thứ hai là đại diện trí thức trong nước, bên thứ ba là đại diện trí thức hải ngoại. Ba bên bình đẳng xung quanh một bàn tròn trên tinh thần tương thân tương ái, đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau bàn bạc quốc kế dân sinh theo tiêu chí Đồng Thuận.
Những gì ba bên cùng nhất trí thì đưa sang chính phủ thực thi. Những gì chưa đồng thuận thì tiếp tục suy nghĩ đối thoại cho tới đồng thuận. Bàn Tròn có một tờ báo để trao đổi ý kiến trên tinh thần xây dựng vì tổ quốc và nhân dân.
Tôi mệnh danh phương án ấy là Tiểu Diên Hồng – Bàn Tròn Ba Bên.”
Trước hết, xin lưu ý với bạn đọc hãy ghi nhớ rằng cái phương án “Tiểu Diên Hồng – Bàn Tròn Ba bên” này, được Hoàng minh Chính đề xuất cho tụi Việt gian cộng sản Pắc bó, khi còn trong tù ở Hà-nội, từ hơn 10 năm về trước – 14-7-1995. Chúng tôi sẽ phân tích vấn đề này sau.
Bây giờ xin đi vào chuyện “Ba Bên” như sáng kiến của Chính.
Cái chuyện “Ba Bên” này giúp chúng ta, nếu tỉnh táo, sẽ thấy cái chất Việt gian cộng sản Pắc bó, vừa ngu vừa đểu giả còn đậm đặc từ óc tới tim, gan, phèo phổi của Chính. Đúng ra là từng tế bào một.
1) Nói trong Hội nghị Họp mặt dân chủ 2005, hiển nhiên phải có ông lang tây Nguyễn xuân Ngải – phó chủ tịch đảng Nhân dân Hành động (không biết hành động cái gì, chống hay chạy theo Việt gian cộng sản, thật là mơ hồ!); phải có đại diện của các đảng phái khác nữa ở hải ngoại v.v… Thế mà Chính nói: “một bên là đại diện Đảng”. Đảng nào vậy? Hỏi vậy thôi, chứ đứa con nít cũng biết “Đảng” đây là đảng Việt gian cộng sản! Chuyện này nó đã khắc sâu vào bộ óc bò đực của Hoàng minh Chính rồi, nên hắn bắt mọi người, kể cả me-xừ Ngải, đường đường cũng là “lãnh tụ” một đảng chứ bộ rỡn hẳn, phải hiểu rằng “Đảng” là độc quyền của tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó.
2) Chính viết rất lưu manh, rằng: “Ba bên bình đẳng xung quanh một bàn tròn”. Trò này đâu phải là sáng kiến của Hoàng minh Chính mà hắn ăn cắp trong “Phi lạc sang tàu” của cụ Hồ hữu Tường.
“Bình đẳng quanh bàn tròn”, còn khi ra khỏi bàn tròn thì lại “Đảng lãnh đạo” và “Trí thức thì không bằng cục phân”, phải không?
Ai mà đã bị dục vọng bẩn thỉu chi phối đều trở thanh mù và điếc.
Tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó có truyền thống nhổ ra rồi lại liếm, chưa bao giờ chúng quan tâm chút chút thôi, chứ nói gì chúng tôn trọng những hiệp định, văn bản, tuyên ngôn, nghị quyết này khác mà chúng ký kết, dù với ai, dù thời điểm nào!
3) Hãy nhớ lại những hiệp định có quốc tế tham dự như Genève 1954 về Việt Nam, Paris 1973 về Việt Nam, chúng xé ngay khi mực chữ ký còn chưa ráo. Thế mà bây giờ lại có thể lú lẫn nghe tên Việt gian tay sai cò mồi để ngồi bàn với chúng. Mà ai ngồi bàn? Với tiêu chuẩn lựa chọn theo quan điểm của Hoàng minh Chính, chắc chỉ có loại “trí thức hèn”, “trí thức cờ trắng” hoặc “trí thức không bằng cục phân”!!! Đã là “trí thức”, đã là “kẻ sĩ” dù ở trong nước hay ngoài nước, chẳng có ai đi “họp bình đẳng” với tụi Việt gian cộng sản, với đứa đầy tớ già của tụi Việt gian cộng sản, không bằng “con ngựa già của chúa Trịnh” trong truyện ngắn của Phùng Cung, là Hoàng minh Chính!
4) Cái bánh vẽ một màu đen xám xịt của Hoàng minh Chính đưa ra là: “Những gì ba bên cùng nhất trí thì đưa sang chính phủ thực thi. Những gì chưa đồng thuận thì tiếp tục suy nghĩ đối thoại cho tới đồng thuận.”
Chính phủ nào? Cái chính phủ hiện nay ra đời theo công thức “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý” chăng? Cái “chính phủ” đó đã có nhiều thành tích vi phạm ngay chính hiến pháp của chúng, tỷ dụ như thằng Võ văn Kiệt ký nghị định 31/CP và thằng Phan văn Khải bổ xung hoàn chỉnh hơn. Chúng thực thi như vậy đấy. Và, xưa kia thì cái chính phủ thời Phạm văn Đồng làm thủ tướng, cũng cho bắt giam cha con Vũ đình Huỳnh và cả Hoàng minh Chính nữa, có theo đúng tố tụng hay không? Việc chúng đàn áp Phật giáo Hòa hảo, Tin lành, cướp ruộng cướp nhà của dân, tổ chức buôn người thông qua cái Bộ lao động – xã hội do con Nguyễn thị Hằng, một xã viên hợp tác xã dệt chiếu cói ở Thanh hóa, chỉ nhờ có máu lai Tây, cao ráo, mát mắt, chấp nhận làm bồ nhí của tên Xuân Thủy mà ngày nay là bộ trưởng, và vào trung ương Việt gian cộng sản từ khóa 7 đến nay, hơn đứt đuôi Hoàng minh Chính rồi đó!!! Đưa cho cái “chính phủ” đó thực thi, thà rằng đưa cho Năm Cam với các đệ tử Bùi quốc Huy, Trần mai Hạnh, Phạm sỹ Chiến v.v… của Năm Cam, có khi còn lẹ hơn và không bẩn thỉu bằng bọn Trần đức Lương, Phan văn Khải, Vũ Khoan v.v…
5) ”Những gì chưa đồng thuận thì tiếp tục suy nghĩ đối thoại cho tới đồng thuận.”
Suy nghĩ đến bao giờ, đối thoại đến bao giờ? Một năm, mười năm hay trăm năm? Tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó, sẵn sàng thành lập một cơ quan chức năng để dự họp “bàn tròn ba bên” và đối thoại hết năm này qua năm khác mà vẫn chưa đồng thuận thì làm sao thực thi?! Trong khi đó, cái “chính phủ” của chúng cứ “thực thi” những kế hoạch của chúng. Và người Việt ở hải ngoại “tạm ngưng đấu tranh” để chờ kết quả đối thoại chắc hết luôn đời của thế hệ này qua thế hệ khác cho đến lúc “cứt trâu lâu hóa bùn”.
6) Bàn bạc chuyện quốc kế dân sinh làm sao lại chỉ có 3 bên. Còn các tôn giáo với quyền tự do tín ngưỡng; còn nông dân, công nhân, thanh thiếu niên, các nhà công kỹ nghệ, thương nghiệp v.v… bị loại sao? Hoàng minh Chính và quan thầy của hắn có quyền gì mà loại những tầng lớp cột trụ đó của xã hội, của một quốc gia?(!!!)
Điều này chứng tỏ Hoàng minh Chính vì ai mà đề ra phương án “Tiểu Diên Hồng”! Nó có lợi cho ai? Nó câu giờ cho ai tiếp tục thống trị và bóc lột nhân dân, bán đất, bán biển, bán tài nguyên của Tổ quốc?
Chắc chắn nhân dân Việt Nam cả ở trong nước và ngoài nước vẫn là nô lệ, vẫn là nạn nhân, vẫn là con bò sữa dollars!!!
Nếu Hoàng minh Chính không nhận ra những mâu thuẫn nói trên thì là đồ ngu. Chúng ta có nên đi theo tên ngu không?
Nếu Hoàng minh Chính cố tình đưa chúng ta vào cái bẫy “hòa giải – hòa hợp” cuội, mà thực chất là chúng ta sẽ trở thành công dân CHXHCN Việt Nam, cư trú ở nước ngoài như mục tiêu của nghị quyết 36 của bộ chính trị tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó đề ra, kèm theo khoảng 700 triệu US dollars, bước đầu cho việc thực thi cái nghị quyết lưu manh đó. Thử hỏi rằng, hàng 30 năm nay, hải ngoại chúng ta liên tục chống quân Việt gian cộng sản Pắc bó, có lẽ nào lại tiếp đón, tôn vinh một tên tay sai của tập đoàn Việt gian – cái vỏ chanh đã bị quăng vào thùng rác, nay chúng nhặt lại, tẩm ít đường, nấu thành mứt chanh bán cho chúng ta… ăn!!!
Hãy từ từ vỗ tay, để cho Hoàng minh Chính múa cho xong điệu vũ chó sói của hắn đã. Chưa muộn!!! Bài học “tổ chức phở bò” còn nóng hổi, bảng hiệu bán phở hạ xuống nhưng thế vào đó là cái bảng “lẩu dê”!!! Cũng như cái trò mị dân cũ rích “Nhân dân hành động” để rồi quên bài học lịch sử, sẽ thành “Nhân dân trần như nhộng” thì… đừng kêu Trời!!!
7) Đừng có thấy Hoàng minh Chính cũng gân cổ “chửi” cộng sản mà cho rằng hắn… thực lòng. Hắn chỉ chửi cái râu ria, còn cái tội Việt gian rành rành thì hắn tránh né. Chẳng lẽ Chính không thấy rằng:
- Hồ chí Minh là do Nga-xô đào tạo. Tất cả lũ từ Trần Phú, Nguyễn thị Minh Khai, Lê hồng Phong, Hà huy Tập, Phùng chí kiên, Trần văn Giàu v.v… cho đến nay là Nông đức Mạnh, Trần đức Lương, Phan văn Khải v.v… đều do Nga-xô đào tạo. Lũ tướng tá trong ngụy quân cộng sản cho đến công an, tòa án, hải quan… và hầu hết các giáo sư… đều từ cái lò Nga-xô mà ra. Ngay Hoàng minh Chính, Vũ thư Hiên, cho đến Nguyễn minh Cần… đều do mẫu quốc đỏ Nga-xô nuôi ăn, dạy bảo thành tay sai trung thành;
- Đảng cộng sản Đông dương (tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay) cũng thành lập từ chỉ thị của Bộ thuộc địa (Quốc tế 3) của Nga-xô. Và, từ đó mọi hoạt động từ kinh phí cho đến đường lối… nhất nhất đều do cái Bộ thuộc địa đó chỉ đạo. Cho đến sau thế chiến 2 thì có sự chỉ đạo trực tiếp của toàn quyền Nga-xô, theo cách gọi “cách mạng”, là đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Và, phó toàn quyền là đại sứ đặc mệnh toàn quyền Tàu cộng. Những sự thật quá lộ liễu mà ai đã ở phần vĩ tuyến 17 trở ra Bắc Việt Nam đều biết, cho nên các cuội đỏ Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn minh Cần cũng lộ ra trong sách của chúng. Còn công khai thì Nguyễn duy Trinh đã viết thành “sách trắng” từ sau cuộc chiến “môi sứt, răng vẩu” với Tàu cộng năm 1979.
Sau ngày Quốc Hận 30-4-1975, tập đoàn Việt gian Pắc bó, đã hoàn thành nhiệm vụ mà Bộ thuộc địa Nga-xô (Quốc tế 3) trao cho từ năm 1930, nghĩa là nhuộm đỏ 3 nước Đông dương. Chúng cho mở đại hội lần 4 ăn mừng, lên thang lên bậc cho những đứa có công trong việc đặt ách nô lệ lên toàn thể đất nước Việt Nam. Trong dịp này, tên đồ tể Trần Độ được lên 1 sao và được là ủy viên trung ương chính thức, mà bọn Hoàng minh Chính, Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Đoàn viết Hoạt, Lâm thu Vân v.v… đã khóc sướt mướt khi hắn chết, vì bị các “đồng chí” của hắn quay lén phim, cảnh “anh già” 2 lần anh hùng Trần Độ đang hú hí với một cháu chiêu đãi viên ở khách sạn Hữu Nghị, Sài-gòn, nên… phải vào bệnh viện và… rồi đó bị quỷ sứ còng tay đưa xuống Âm-ty (bề ngoài thì giả bộ uất ức vì bị công an chèn xe cướp quyển “Nhật ký Rồng Rắn”; các đệ tử thì cãi hộ là Độ bị gái của T2 cài bẫy (?). Nếu Độ đứng đắn không vào khách sạn Hữu Nghị thì làm sao con bé nhân viên của T2 đó lôi lên giường và ấy… được???)
Tiếp theo, hầu hết bộ chính trị Việt gian cộng sản, từ Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng… cho đến Nguyễn duy Trinh, Lê thanh Nghị, giắt díu nhau sang triều bái dâng công mẫu quốc đỏ Nga-xô và ký vội một cái hiệp ước “Hòa bình và hữu nghị” mà nội dung còn hèn hạ hơn hiệp ước Patenôte của Tự Đức ký với thực dân Pháp!
Việt Nam đã trải qua nhiều lần bị giặc phương Bắc xâm lược, chia thành quận huyện để cai trị. Nhưng Tổ tiên chúng ta đã chiến đấu giành lại được nền độc lập và toàn diện lãnh thổ. Khi đuổi xong quân xâm lược phương Bắc, giải phóng nhân dân và đất nước, chưa bao giờ có việc tàn sát, cướp bóc, đưa dân vào tù, bắt làm lao dịch như tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó! Ngược lại chỉ có quân xâm lược phương Bắc làm như vậy khi chúng tạm thời chiến thắng và đặt ách cai trị!!! Thực dân Pháp cũng vậy, nhưng chúng chưa tàn bạo như tụi Việt gian Pắc bó!
Vua nhà Trần, trong lần chống quân Nguyên lần thứ nhất, còn cho đốt tráp tài liệu gồm các thư của một số quan lại tư thông với giặc Nguyên. Lê Lợi vào Thăng-long cũng chỉ giúp dân ổn định cuộc sống. Và, ngay Quang Trung, đánh xong quân Thanh cũng không hề trả thù ai. Từ trước đó Ngài còn trọng dụng những nhân tài Bắc hà của triều Lê.
Tại sao? Tại vì tất cả những vị đó là người Việt Nam, vì đất nước Việt Nam và quý báu xương máu người Việt Nam.
Còn tập đoàn Việt gian Pắc bó Hồ chí Minh hoàn toàn ngược lại. Máu xương Việt Nam đã đổ xuống vì ai, vì cái gì? Đất, biển của Việt Nam phải cắt dâng cho ai? Ai hưởng không cảng Cam-ranh và các mỏ dầu khí? Lao động Việt Nam phải qua Sibérie lạnh rét lao động cho ai? Lại còn phải trả nợ chiến phí nhiều gấp bội xưa kia nhà Nguyễn trả cho thực dân Pháp v.v…?
Cuối cùng trong các nhà tù, mọc như nấm, từ Nam chí Bắc, để nhốt… toàn người Việt Nam!!! Chẳng thấy đế quốc Mỹ đâu cả!
Giặc phương Bắc và thực dân Pháp cũng không tàn bạo như tập đoàn Việt gian Pắc bó. Tại sao? Tại chúng là Việt gian tay sai của thực dân đỏ toàn chế Nga-xô – Tàu cộng.
Ai cưỡng bức để nhiều triệu dân Việt Nam phải bỏ quê hương ra đi, bất chấp cái chết trên đường tơ, kẽ tóc; bất chấp cảnh hàng vài trăm ngàn người đã lấy bụng cá, đáy đại dương làm mồ chôn tập thể; chịu đựng cảnh hiếp tập thể của cướp biển Thái lan…?
Ai buôn nô lệ, để mọi lứa tuổi Việt Nam bị bán làm nô lệ từ châu á, Âu, Phi, Mỹ? Vừa là nô lệ về lao động, nô lệ tình dục. Nếu tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc bó thực sự là người Việt Nam thì đâu có đối xử với nhân dân Việt Nam như vậy!!! Cho nên chỉ có mù cả mắt, lẫn mù trí tuệ mới không thấy cái bản chất Việt gian trong cái tổ chức gọi là đảng cộng sản Đông dương trước kia và hậu thân của nó là đảng cộng sản Việt Nam hiện nay!!! Tức là trọn vẹn những đứa nào đến giờ phút này còn là đảng viên cộng sản, còn thừa nhận tập đoàn Việt gian Pắc bó, còn bào chữa cho chúng đều là lũ có căn Việt gian ở mức độ nặng nhẹ khác nhau mà thôi.
Chỉ những Ai từ bỏ đảng cộng sản, kêu gọi người khác từ bỏ đảng cộng sản mới có thể được coi là thực lòng quay về với dân tộc và trở thành một thành viên bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi như các thành viên khác. Tỷ dụ một người làm điếm, cho dù bị bất kỳ hoàn cảnh nào xô đẩy, chừng nào vẫn sống và làm việc cho động điếm; ca ngợi động điếm, bao che, bào chữa tội lỗi cho lũ “Tú Bà, má mì”, thì chúng ta có tin được họ không, phải gọi họ là gì nếu không gọi là “một con điếm khả ố, điếm từ xương tủy đến từng tế bào”. Và, thử tưởng tượng những kẻ ngậm ống đu đủ thổi đít con điếm đó lên, đưa nó lên bàn thờ giới thiệu với bạn bè, con cháu, hàng xóm xa gần như đó là một… bồ tát, rồi xun xoe theo hầu điếu đóm, tổ chức cho nó diễn thuyết kêu gọi mọi người, dạy bảo mọi người về luân lý, đạo đức, nghĩa vụ công dân và… tôn thờ các “tú bà, má mì” và cái động điếm của chúng! Chúng ta nghĩ sao?
Khi đưa ra phương án “tiểu diên hồng”, Hoàng minh Chính đã đúng là cái con điếm nói trên hóa thân trong hình hài của anh già mất nết… ung thư cái gì đó, để lừa đảo nhân dân Việt Nam thừa nhận cho những loại “tú bà, má mì” của động điếm có tên đảng cộng sản Việt Nam, đi vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại theo lộ trình nghị quyết 36 của chúng!!!
Đừng vội tin vào cái tài viết láo của Minh Võ và mấy con điếm già như Bùi Tín, Vũ thư Hiên… tô vẽ cho đồng đảng về cái quá khứ tù đày “phịa” và cái chức danh Viện trưởng Viện triết Marx-Lênin của Hoàng Minh Chính. Ngoại trừ lần tù đầu tiên, còn những cái gọi là “tù”, “tra tấn”, “quản chế” của Chính trong những lần sau chỉ là biện pháp “lăng xê” một quân bài mới, một phương án mới của tập đoàn Việt gian Pắc bó, mà mục tiêu chính yếu là xâm lược không đổ máu cái cộng đồng người Việt dollars mà thôi.
Bản thân Hoàng minh Chính, hệt như “giáo sư” Trần Khuê (một loại “đốc tờ Xuân” trong tác phẩm Số Đỏ của Vũ trọng Phụng) được đi Nga-xô học về triết học Marx-Lênin, vì: thứ nhất hắn là cán bộ chính trị trong ngụy quân cộng sản Pắc bó; thứ hai là hắn chưa học tới cấp 3 phổ thông, mới đến “diplôme” (hết đệ tứ), nên không thể học được gì ngoài môn Marx-Lênin, là cái môn mà từ 1960, ai ở ngoài Bắc Việt Nam đều biết, tất cả cán bộ công nhân viên, kể cả quét rác, lái xe, có người còn chưa thoát nạn mù chữ, đều được tập trung lên hội trường cơ quan vào các chiều thứ ba và thứ năm hàng tuần để học triết học Marx-Lênin qua loa truyền thanh. Ai còn nghi ngờ, xin hỏi Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Trần Khuê xem chúng có dám chối không? Cho nên Hoàng minh Chính, sau ba năm rưỡi có thèm đoạt một học vị nào đâu. Cũng xin lưu ý với bạn đọc rằng, dưới chế độ nô lệ đỏ của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, đừng tưởng ai đứng đầu ngành nào là giỏi về ngành đó, là một sai lầm trầm trọng. Thí dụ: thứ trưởng kiêm ủy viên đảng đoàn Việt gian cộng sản ở Bộ giao thông Hồng xích Tâm, nguyên 1945 về trước, là phu xe kéo (pousse-pousse); Bộ trưởng bộ lương thực và thực phẩm (trước đó là thứ trưởng của Bộ công nghiệp nhẹ) là Ngô minh Loan, đang học bổ túc văn hóa cấp hai khi giữ ghế bộ trưởng; Đinh thị Cẩn, thứ trưởng thứ nhất bộ y tế mới học xong lớp 4, nhờ có thời gian nấu bếp cho họ Hồ. Còn nhiều nữa, ngay như tên cuội đỏ Bùi Tín cũng bóc mẽ Chu huy Mân, vì khi đó Mân tham gia tích cực đá đít Võ nguyên Giáp. Chu huy Mân lại là đại tướng, chủ nhiệm tổng cục chính trị khi qua Căm-pu-chia, có mặt Bùi Tín ở đó, đã “lỡ mồm” gọi “đảng và chính phủ Căm-bốt” là “thưa các đồng chí Cộng hòa nhân dân… Mông cổ”!!! Nhờ “ngu nhưng tàn bạo” như con bull-dog nên Mân lên làm chủ tịch nước của tập đoàn Việt gian Pắc bó.
Cho nên đừng nhầm lẫn xếp Hoàng minh Chính vào dòng “trí thức”, mà phải xếp vào họ “vẹt”!
Tụi đặc công đỏ cùng tụi nằm vùng đã rước Hoàng minh Chính ra hải ngoại, nói là đi chữa bệnh, nhưng thực ra là để triển khai thực thi nghị quyết 36, làm cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” trong cộng đồng người Việt dollars, không đổ máu, giống như Tết Mậu Thân (1968) – chỉ khác là tắm máu.
Nhờ cái Mậu Thân 1968, những bộ mặt Lê văn Hảo, Nguyễn đắc Xuân, anh em Hoàng phủ Ngọc Tường v.v… bị lộ mặt… non. Thì ngày nay chúng ta thấy cái gọi là”mạng lưới nhân quyền” họp mặt để… ăn mừng ngày “2-9” và chắc cũng tưởng niệm họ Hồ Việt gian, rồi kéo nhau dăm chục mống vào chỗ hiểm, đến nỗi Nguyễn chí Thiện, một người còn nhiều nghi vấn không chắc là tác giả “Hoa địa ngục” và nhiều cái không minh bạch khác, bị lạc đường (cầu mong Nguyễn chí Thiện đừng tiếp tục bị lạc đường nữa). Hệt như hồi xưa, Phạm Hùng xin gặp họp mật với ông Ngô đình Nhu ở quận Tánh-linh vậy. Nay, nơi bí hiểm mà nhóm “dân chửi” đó họp cũng nên gọi là “quận Tánh-linh ở California” cho dễ nhớ, vì có thể có một thứ Phạm Hùng của T2 nên cần bí mật.
Nếu thực hiện “Tiểu diên Hồng” như Hoàng minh Chính đề xuất, tất nhiên được tụi Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn chí Thiện, Viết Hoạt, Ngô nhân Dụng, Xuân Khoa, Xuân Ngải (không biết có Xuân tóc đỏ dự không) và v.v… v.v… dự họp mặt “dân chửi” đập chân, đập tay tán thành rồi… thì có nghĩa chúng ta để cho, chẳng những lá cờ máu sao vàng quạch đi vào cộng đồng người Việt dollars, mà sẽ có thể cả cờ máu búa liềm đi… theo nữa. (Chắc hẳn “tiểu diên hồng” sẽ họp ở phòng họp của báo Người Việt, tiện thể dùng nhờ đài của họ và báo Người Việt để loan tin họp hành, thảo luận. Thật tiện lắm thay! Hà tường Cát, từng là trưởng ban trật tự ở Z30D, lại làm trưởng ban trật tự nữa thì số dzách).
Ngoài đại diện “đảng” của Hoàng minh Chính, Vũ thư Hiên, Bùi Tín ra thì “trí thức” trong nước là ai? Trần Khuê, Đỗ nam Hải ư! Hai kẻ sẽ đeo huy hiệu cờ… Mỹ và cờ máu Việt gian Pắc bó như chúng từng đeo sao? Rồi đến trí thức hải ngoại, người đầu tiên đã được Hoàng minh Chính “dân chủ” chỉ định Xuân Ngải,
No comments:
Post a Comment