Nhà Báo Việt Thường

Nhà Báo Việt Thường

Tìm kiếm bài Blog than huu cua Nha Bao Việt Thường xin gõ chữ vào đây

Saturday, September 5, 2009

Hồ Đinh -hảm kịch Việt Nam hôm nay do chính trí thức tạo thành

Thm kch Vit Nam hôm nay hay
Bài h
c lch s do chính trí thc to thành

Hồ Đinh


Trước cách mng 1789, nước Pháp dưới triu vua Louis XVI, lúc nào cũng t coi mình là đng con tri, vì nm hết moi quyn lc trong nước, li thêm có s tiếp tay ca ba thế lc đương thi, đó là giai cp tăng l, quí tc và bn trí thc giàu có, sng nh hút máu đng bào hèn nghèo bé ming...

...Có thể coi xã hội Pháp thời đó, y chang như thiên đàng Việt gian CSVN ngày nay, quyền lực do đảng nắm giữ, đứng vững nhò sự tiếp tay của một thiểu số trí thức sa đọa vì quyền lực và phù phiếm cuộc đời. Đó là lý do, khiến cho mọi tầng lớp xã hội, mà hầu hết là giới nông dân thợ thuyền, qua luồng gió dân chủ, tự do của Montesquieu, Jean Jacques Rousseau, Voltaire, đã đứng dậy đập tan chế độ bạo tàn, đưa cuộc cách mạng 1789 đến chỗ thành công. Ngày nay người Pháp, không ai quên được cái đêm 14-7, cảnh dân chúng Ba Lê phá vỡ ngục Bastille, kế tiếp là ngày 21-1-1793 đã bắt vua Louis lên đoạn đầu đài xử tử, vì tội rước giặc về, để bảo vệ cái ngai vàng của mình, mà dày xéo quê hương tiên tổ. Do kết quả trên, từ đó về sau, thế giới coi cuộc chính biến năm 1789, là một cuộc cách mạng vĩ đại. Nước Pháp sau đó, đã đổi mới toàn diện về chính trị, thay đổi hiến pháp, cải cách xã hội... mở đường cho cuộc cách mạng 1848 tại Âu Châu, hoàn thành chủ thuyết Dân Tộc Tự Quyết, cải thiện đời sống củagiới lao động, thợ thuyền.

Tại Châu Á, năm 1888, Minh Trị Thiên Hoàng, cũng đã làm một cuộc cách mạng cho nước Nhật, sau khi bị Mỹ làm nhục. Năm 1853, Nhật đã canh tân đất nước toàn diện, thay đổi một quốc gia phong kiến lạc hậu, chia năm xẻ bảy bởi nạn sứ quân, thành hợp nhất, cải tổ kinh tế, quân sự, chính trị, làm cho nước Nhật trở thành một cường quốc. Nhờ vậy, chẳng những người Nhật được thế giới, trong đó có Hoa Kỳ kính nể, mà còn chiến thắng Trung Hoa năm 1894, buộc người Tàu phải ký hiệp ước Simonoseki (Mã Quan), trả độc lập cho bán đảo Triều Tiên, đồng thời nhường cho họ, quần đảo Bành Hồ và đảo Đài Loan. Tiếp đến Nhật còn thắng Nga năm 1905, ở biển nam đảo Sakhaline, chiếm Mãn Châu, Triều Tiên và đường xe lửa trong vùng.

Như vậy, cách mạng qua các thành tựu trên là một sự bỏ cũ thay mới, loại cái xấu cái tồi để thực hiện những điều hay tốt, làm cho an dân lợi nước. Trong dòng lịch sử VN cận đại, tài liệu có nhắc tới cách mạng mùa thu tháng 9-1945, cộng sản đệ tam quốc tế, qua bình phong Việt Minh, đã cướp được chính quyền, lúc đó đang bị rơi rải ngoài đường vì cả Nhật-Pháp, hai chủ nhân ông củaVN đã buông tay, còn Chính phủ đương thời Trần Trọng Kim, lại bị bọn Việt Gian nằm vùng lúc đó, đoạt quyền... cho nên cũng hữu danh vô thực. Tại VNCH, ngày 1-11-1963 cũng có một cuộc cách mạng, lật đổ nhà Ngô. Như vậy, nếu từ căn nguyên và ý nghĩa của cách mạng, mà tượng trưng là những năm 1789, 1848, 1853..chúng ta sẽ không bao giờ dám nghĩ rằng, những biến cố chính trị vào năm 1945 hay 1963 tại miền Nam VN, là một cuộc cách mạng như một vài người đã tự gán. Đúng hơn, đó chỉ là những biến cố quân sự để cướp quyền lực, dành địa vị,thay vua, đổi màu cờ, tên nước... Bởi vì sau đó, mọi sự cũng chẳng có gì mới mẻ, ngoài các nhân vật cũ nhưng mới nhờ có kèm theo chức vụ hay lon lá to hơn, khi còn trong chế độ cũ, tạo nên một cuộc đổi đời long trời lở đất, mở đường đưa lối, giúp VC cưỡng chiếm được toàn thể VN, tạo nên những thảm kịch thiên cổ, có một không hai trong dòng sử Việt.

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh...’


Hai câu thơ cổ trên, được trích từ bài thơ ‘chính khí ca’ của Văn Thiên Tường (1236-1282), một đại quan thời mạt Tống cũng là một sĩ phu trí thức, một nhà nho lỗi lạc, có tình yêu nước nồng nàn. Khi đất nước lâm nguy, dù làm quan tột đỉnh tới Thừa tướng Khu Mật Sứ, người trí thức sĩ phu, đã quên mình, dấn thân ra chiến trường, cầm quân chống kẻ thù Mông Cổ. Cuối cùng ông và vua Tống Đoan Tông, đều bị bắt tại Quảng Đông vào năm 1278. Tại Yên Kinh, người sĩ phu trí thức, thà chịu tù đầy, hận nhục nhưng lòng băng sơn son sắt, quyết không hàng giặc. Vì vậy Ông bị giặc giết, trước khi lìa đời, đã viết bài ca chính khí, cảm động và rung động lòng người.

‘Thâm tâm nhất phiến, từ châm thạch
bất chỉ nam phương, bất khẳng hưu
tòng kim biệt khúc Giang Nam lộ
hóa tác Đổ Quyên, đái huyết quy...’


Tại miền Nam VN, từ 1960-1975, trong lúc Việt gian cộng sản Bắc Việt ngày đêm không ngớt tấn công gây chiến khắp mọi miền đất nước, làm cho đồng bào lầm than, người lính trường sa ngày đêm thương vong, chết tủi. Rồi cũng nhờ máu xương của lính, mua thêm thời gian tồn tại của VNCH, nên mới có phản chiến, xuống đường, đêm bàn thờ ra phố chợ, làm ô uế bậc thần linh tôn kính. Tóm lại chính vì miền Nam quá tự do, cho nên mới có đất, để bọn Hippy tại Mỹ, qua cái gọi là The Beatles, múa may cuồng ngạo. Mới có trí thực, vô hồn không óc, chạy theo Bertraud Russell, Jean Paul Sartre, Herbert Marcuse... tuy ăn cơm và sống nhờ bàn tay che chở củangười lính Quốc Gia, lại lợi dụng tự do, dân chủ, công khai tán tụng cộng sản xâm lăng Hà Nội, hô hào hòa bình giả mạo, bắt quân dân miền Nam buông súng đầu hàng kẻ thù. Cũng vì tự do dân chủ, mới có thơ văn và âm nhạc phản chiến, công khai chống lại chính phủ mình. Mới có Trịnh Công Sơn, Thích Nhất Hạnh, Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Chân Tín, Lý Chánh Trung... Mới có Hành Trình, Đất Nước, Tin Văn, Trình Bày, Đối Diện, Vấn Đề... mới có một số lớn con cái của các cán bộ tập kết ra Bắc, để vợ con ở lại sống bằng sự chắt chiu đùm bọc của người Miền Nam. Tới khi trưởng thành, lại trở mặt, nằm vùng chống lại người ơn của mình, mà điển hình nhất là Phi Công Nguyễn Thành Trung trong KQ/VNCH, hiện đang múa may quay cuồng, không có một chút gì là hổ thẹn và hối hận.

Ngày 22-5-1974, Hạ Viện Mỹ phủ quyết đề nghị gia tăng ngân sách viện trợ, cho VNCH năm 1975. Cuối tháng 10-1974, trước bất lợi của VNCH, nên Việt gian CSBV quyết định cưỡng chiếm miền Nam bằng quân sự. Và trong lúc non nước nguy khốn với thù trong giặc ngoài, thì trí thức miền nam, qua báo chí, rầm rộ biểu tình chống chính phủ, đòi tổng thống từ chức. Ngày 10-10-1974, lại ký giả đi ăn mày, do Vũ Hạnh, Kiên Giang, Nguyễn Văn Bổng, giựt dây xúi giục. Trong lúc giặc Bắc đã mở màn cuộc xâm lăng, bằng trận đánh lớn đầu tiên, chiếm Thượng Đức (Quảng Nam) sau khi đã cùng Mỹ, trân trọng ký vào bản hiệp ước ngưng chiến, để hòa bình tại hai miền VN.

‘Không ai có thể tắm hai lần dưới cùng một dòng sông‘. Bởi vậy, sau ngày 30-4-1975, VN hoàn toàn bị cộng sản nhuộm đỏ, đã không còn biểu tình, chống đối, cho nên đảng cầm quyền, một trời một chợ, bán đất nhượng biển, tham nhũng, gây nên đại họa thiên cổ, mà không một sử gia hay chữ nghĩa nào, ghi cho hết được.

1-NHỮNG LỜI NÓI DỐI CỦA LỊCH SỬ :

Chiến tranh VN xưa nay là một đề tài, cũng như phương tiện, giúp cho nhiều người nổi tiếng và làm giàu. Tại Hoa Kỳ, có giáo sư sử học Joseph. J. Ellis, củaTrường Đại Học Mount Holyoke, nức tiếng trong ngành sử học, nên đã nhận được giải văn chương báo chí Pulitzer vào tháng 4-2001. Tuy nhiên trên đời này, không điều gì có thể dấu được, khi hầu hết các bí mật lịch sử, gần như đã được khai quật. Cho nên, sự việc thần tượng Joseph, bị nhà báo Walter V.Robinson hạ bệ, qua bài báo mang tựa ‘Professor’s past in doubt ‘, đăng trên tờ Boston Globe, số ngày 18-6-2001. Qua đề tài ‘quá khứ hoài nghi một giáo sư sử học‘, đã vạch trần những hồi ức, mà nhà sử học dùng làm tài liệu, để chứng thực rằng ông ta có chiến đấu tại VNCH. Thế nhưng qua lời bạn bè, một thời từng chiến đấu trong thập niên 1960, đều xác nhận đượng sự, tuy có ở trong quân đội Hoa Kỳ nhưng chưa bao giờ tới VN chiến đấu, mà chỉ phụ trách dạy lịch sử, tại Học Viện Quân Sự West Point. Tóm lại nước Mỹ sẽ còn phải đối mặt với nhiều năm tháng, qua những ám ảnh về chiến trường VN, mà nhiều nhà báo trước đây, vì háo danh và vô nhân đạo, đã bẻ cong ngòi bút, khi viết sự thật lịch sử.

Chưa hết việc làm và ghép ảnh giả, để khai thác cái hồn và làm tăng độ tin của những bài viết bôi lọ, nhục mạ QLVNCH, cũng được nhà báo Mỹ và Tây Phương khai thác một cách tận tuyệt. Mới đây trong tác phẩm ‘những lời khoắc lác’ của Custis Mc Dougall, gần như vạch trần những sản phẩm, một thời được rêu rao, bây giờ bị lật mặt nạ là bịp bợm.

Nói chung sự bưng bít lịch sử, trong thế giới cộng sản thật là dễ sợ. Bởi ngay bây giờ, vẫn còn nhiều nhà báo quốc tế, như đang ngủ trong mây, qua những vấn đề có liên quan tới VN. Tóm lại, chẳng những cả nước bị bịt mắt bắt dê, mà ngay tới những thành phần trí thức tại Bhutan, Panama, Nigeria... gần như không hiểu một chút gì về cái chế độ độc tài, đảng trị, có một không hai trong lịch sử Việt.

Cho nên cũng đừng lạ, khi biết được mới đây, đài CBS lại bị tố cáo là loan tin thất thiệt, qua một bài tường thuật về đời quân ngũ của đương kim tổng thống Hoa Kỳ G.B.Bush. Sự kiện quan trọng trên, khiến cho thiên hạ giờ đây hết tin nổi, những cái gọi là truyền thông nước Mỹ như NBC, CNN, The New Republic, The Washington Post, USA Today, The New York Times, và những đài ngoại quốc có chương trình Việt Ngữ như BBC Luân Đôn, RFA, VOA... Một tổng thống quyền hành bao trùm cả thế giới, mà còn bị báo và truyền hình bôi nhọ, chụp mũ, thì cái sự Lịch sử thời VNCH bị dựng đúng, bẻ cong, cũng là điều bình thường.

A-TỔNG THỐNG THIỆU VÀ 16 TẤN VÀNG :

Căn cứ vào một số tài liệu mật được giải mã tại các văn khố quốc tế cũng như của Hoa Kỳ, đã khẳng định được một điều, là trong suốt cuộc chiến Bắc Việt xâm lăng VNCH, hầu hết tầng lớp người Việt sống tại Miền Nam VN, nếu không bị áp buộc, gây nguy hiểm đến mạng sống và gia đình họ, thì chẳng có ai ưa thích VC, ngoài một số trí thức no cơm ấm cật, giàu sang thừa mứa, nhờ gốc gác từ địa hào, địa chủ thời Pháp thuộc, quen đứng núi này nhìn non nọ, ngủ trên mây, nên bị cộng sản tuyên truyền lừa phỉnh, đi vào bước đường cùng sau ngày 30-4-1975, tàn mùa chinh chiến. Chính những trí thức thiên tả trên, đã lợi dụng tự do dân chủ của chế độ, để biểu dương lập trường đối lập của mình, đã vô tình hay cố ý tiếp tay với giặc, mang ách nô lệ Mác-Lê từ Nga-Tàu, về dày xéo quê cha đất tổ.

Sau ngày 30-4-1975, qua phút huy hoàng ngắn ngủi, cũng là thời gian mặt nạ những kẻ nằm vùng, đâm sau lưng người lính VNCH được lột, cũng là sự kết thúc vai trò làm hề của trí thức miền nam. Từ đó, tất cả đều chung niềm tân khổ, nhưng người dân và lính chỉ hận hờn vì đầy đoạ, trái lại người trí thức phản bội năm nào, mới là thành phần bị thiệt thòi nhất, vì vừa bị mất hết những đặc quyền đặc lợi mà chế độ cũ dành cho lớp người khoa bảng, luôn được ngồi trên đầu dân đen miền Nam, lại phải mang thêm sự bóp nát lương tâm vì hối hận và trên hết đã thấu rõ nguyên tắc của xã nghĩa:’ TRÍ THỨC THUA CỤC PHÂN VÌ VÔ DỤNG VÀ PHẢN TRẮC LẬT LỌNG.

Nhưng người trong nước thì an lòng chịu đựng, ngược lại có một số loạn thần, nhanh chân chui được vào lòng máy bay Mỹ, chạy ra hải ngoại lúc đó, hay mới đây qua các diện vượt biên, đoàn tụ, tù nhân chính trị... vẫn tiếp tục to miệng làm hề, dù rằng nay đã biển dâu, ông bà sư cố... cũng y chang xếp hàng như me Mỹ, Ba Tàu Chợ Lớn và bần dân xóm biển. Màn chửi rủa, đổ tội, vu khống Miền Nam vì tham nhũng bất tài, nên thua VC... được chấm dứt, khi thành đồng tổ phu Mac Lê, tan hoang, sụp nát vào năm 1990, chẳng những ở Đông Âu, khắp năm châu, mà còn ngay tại Tổng Đàn Nga Sô Viết. Cũng từ đó, xã nghĩa thiên đàng thu gọn tại Tàu Cộng, Viêt Cộng, Hàn Cộng và Cu Ba. Rồi các dĩnh cao tại Bắc Bộ Phủ vì cái ăn bản thân cùng sự sống của đảng, đã muối mặt, mở cửa đổi mới, trải thảm đỏ, lạy mời những kẻ thù năm nao như Mỹ, Pháp, Nhật, Nam Hàn, Đài Loan... kể cả Liên Xô, Âu Châu... vào, để cùng nhau hợp sức, kết đoàn, làm nhanh sự sụp đổ của một quốc gia mang tên VN, từng liệt oanh lừng lẫy dưới trời Đông Nam Á.

Cũng nhờ mở cửa, những tin tức bán nước, hại dân và đại họa tham nhũng cả nước, từ lớn tới bé của Cộng Đảng... bị quốc dân rõ rỉ phanh phui, tràn lan khắp chân trời góc biển và ngay trên mạng truyền thống quốc tế từng giờ, đã khóa kín những cái miệng thúi của bọn trí thức bợ bưng VC, vẫn còn lẩn quẩn, trong tập thể người Việt hải ngoại, đợi dịp và cơ hội, đâm sau lưng đồng bào, như chúng từng làm, khi còn sống tại VNCH, trong cảnh no cơm ấm cật, ai chết mặc bay, vô luân vô tích sự.

Theo tin của Nguyễn Hữu từ Paris, được đăng trên tờ Việt Nam Hải Ngoại, số 132 ngày 31-1-1983, thì Nguyễn Văn Hảo, nguyên phó thủ tướng trong triều vua Dương văn Minh hai ngày, nhờ bảo vệ được ‘16 Tấn Vàng, tài sản của quốc dân Miền Nam’, để dâng cho tập đoàn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ,Phạm văn Đồng... ngay khi chúng vào được Sài Gòn, buổi trưa ngày 30-4-1975. Theo nguồn tin từ các hàng thần VC, ngay khi vào Sài Gòn trưa đó, thì 16 tấn vàng trên, được Duẩn-Thọ, dùng máy bay chở về dấu tại Côn Sơn-Hải Dương. Sau đó đảng nhóm, tự chia chác ăn xài. Cũng nhờ công lao hãn mã trên, nên Hảo Tiến Sĩ, được VC cho xuất ngoại công khai sang Pháp. Tại Ba Lê, Y ngự trong một khách sạn sang đẹp, mà chủ nhân cũng là chủ của Nhà Hàng Đồng Khánh tại Chợ Lớn năm nào.
Sự việc Nguyễn Văn Hảo xuất ngoại bằng thông hành chính thức và liên hệ thường trực với tòa đại sứ VC tại Pháp, cho thấy Y ra ngoại quốc với sứ mạng bí mật. Hiện nay Hảo được Cao Thị Nguyệt, vợ góa của tướng Hòa Hảo Ba Cụt, bảo lãnh sang Mỹ, trước đó ở Texas.

Tuy VC đã cưỡng chiếm được miền Nam gần 30 năm qua, nhưng duới đống tro tàn của quá khứ, vẫn còn âm ỷ các sự kiện nóng bỏng của cận sử VN, trong đó ác nhất là chuyện ‘Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, tẩu tán 16 tấn vàng y của Ngân Hàng Quốc Gia VN, khi chạy ra ngoại quốc, vào những ngày cuối thàng 4-1975‘. Đây là một sự kiện lớn của người Việt Quốc Gia, trong và ngoài nước. Và dù nay mọi sự đã được sáng tỏ, số vàng trên được Nguyễn Văn Hảo giữ lại và chiều ngày 30-4-1975, đem dâng cho Lê Duẩn, chở ngay về Bắc.

Theo tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng, trong tác phẩm ‘Bí Mật Dinh Độc Lập‘, cũng là người chủ xướng trong việc, dùng 16 tấn vàng dự trữ tại Ngân Hàng Quốc Gia, theo thời giá lúc đó là 120 triệu Mỹ Kim, để mua vũ khí đạn dược, cung cấp cho QLVNCH tiếp tục chiến đấu, chờ xin viện trợ của nước khác, vì Hoa Kỳ qua đảng Dân Chủ phản chiến, đã chấm dứt giúp đỡ miền Nam.

Ai cũng biết, từ tháng 4-1975, miền Nam đã mất tinh thần, vì sự tan rã của hai quân đoàn 1 và 2 khi triệt thoái, theo lệnh củaTT Nguyễn Văn Thiệu. Thêm vào đó là sự việc Hoa Kỳ cố ý cắt đứt hết viện trợ, trong lúc đồng minh của mình đang dần mòn thoi thóp chiến đấu trong tuyệt vọng, vì cạn kiệt đan súng, nhiên liệu. Do trên, liên tiếp qua nhiều phiên họp tại dinh Độc Lập, Nguyễn Tiến Hưng đề nghị dùng số vàng dự trữ, để mua súng đạn. Song song là việc tăng cường canh gác, bảo vệ trụ sở Ngân Hàng trung ương, tại Bến Chương Dương-Sài Gòn, đề phòng cộng Sản Bắc Việt thừa dịp đánh cướp, vì tin tức các cuộc họp kín, chắc chắn đã bị điệp viên nằm vùng ngay dinh tổng thống, báo về Bắc Bộ Phủ. Và lần này, VC đã xuống tay trước, để chúng không bị hố như hồi tháng 8-1945, để mất toi số vàng bạc châu báu dự trữ, tại Viện phát hành giấy bạc Đông Dương (Institut d’Emission) ở Hà Thành.

Như vậy theo kết quả buổi họp, có đủ các tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang... số vàng trên sẽ được gởi ra ngoại quốc. Người nhận chỉ thị thi hành là Lê Quang Uyển, Thống Đốc Ngân Hàng VNCH. Ông có nhiệm vụ thuê mướn may bay chuyên chở (hàng hàng không Mỹ TWA,Pan Am) và hãng bảo hiểm quốc tế Lloyd’s tại Luân Đôn, Anh Quốc. Nhưng kế hoạch bất thành, vì tin mật bị lộ ra ngoài, với sự xuyên tạc đầy ác ý: ‘Thiệu mang 16 tấn vàng theo ra ngoại quốc, sau khi từ chức’. Tin trên khiến các hãng máy bay cũng như công ty bảo hiểm từ chối chuyên chở, vì sợ bị phạm pháp.

Cuối cùng Chính Phủ VNCH phải nhờ Bộ Ngoại Giao Mỹ, qua Đại Sứ Martin giúp. Sự việc kéo dài tới khi TT Thiệu từ chức và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế. Ngày 26-4-1975, Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, mới cho biết, đã tìm được một hãng bảo hiểm số vàng trên nhưng giá trị chỉ còn 60.240.000 Mỹ kim, mất đi nữa nếu tính theo thời giá. Riêng việc chuyên chở, cũng phải hoàn tất trước ngày 27-4-1975 vì phi cơ đang đậu sẵn tại phi trường Clark, Manila, Phi Luật Tân, sẵn sàng tới Sài Gòn chuyển vàng.

Nguyễn Văn Hảo bấy giờ là Phó Thủ Tướng, phụ trách kinh tế, được ủy nhiệm thi hành công tác trên. Nhưng Y đoán biết VNCH sẽ thất thủ trong nay mai. Do trên đã manh tâm phản bội, thừa cơ hội lập công dâng cho VC, để mong vinh thân phì gia. Y vào gặp thẳng TT.Trần Văn Hương, hăm đoạ và áp lực đủ điều. Rốt cục Hương vì sợ trách nhiệm, nên đành giao số 16 tấn vàng trên cho Nguyễn Văn Hảo giữ lại, chờ giao nạp cho VC. Nhờ thế, sau ngày 30-4-1975, tên trí thức trở cờ, ăn cơm quốc gia lật lọng, hàm tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, được những người chủ Rừng Xanh, trả ơn cho chức ‘Cố Vấn Kinh Tế’, trong chính phủ Ma Miền Nam. Sau đó không lâu, tiến sĩ giấy cũng theo vận nước, tàn với mặt trận. Rồi cũng như bao kẻ khác, bò tới Mỹ, trốn nhủi tại một vùng nào đó ở TX, ôm hận và xú danh muôn thu ngàn kiếp trong sử Việt.

B- KHẮP THẾ GIỚI THAM NHŨNG-CHẲNG RIÊNG VNCH :

Thì ra không riêng gì VNCH, mà hầu như tất cả các nước trên thế giới, kể cả đại siêu cường Hoa Kỳ, hiện luôn phải đối diện với nạn tham nhũng hoành hành. Nói chung tham nhũng ngày nay không phân biệt giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển, đều là mối đại họa, từng làm sụp đổ nhiều chính quyền, đảng phái. Đặc biệt tại VC ngày nay, ngoài việc cướp hết tài sản cả nước, còn công khai bán đất dọc biên giới, nhường biển, chia cắt vùng đánh cá cho Trung Cộng, để vừa có thưởng lại được che chở, bảo vệ cái ngai vàng từ bảy mươi năm qua, xây trên núi xương biển máu.

Tại các nước Nam Á, do nạn tham nhũng bòn rút hằng triệu triệu Mỹ kim, khiến cho nền kinh tế Ấn Độ, Pakistan, Bangadesh... bị điêu đứng, làm hằng trăm triệu người đói chết. Tại Philippine, qua báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới (WB), nạn tham nhũng đã làm thủng một nửa ngân khoản thu nhập của nước này. Cuối cùng ngày 7-12-2000, Tổng thống Phi Estrada, đã bị Thượng viện truất phế và giam giữ chờ đền tội. Tại Thái Lan, theo Ủy Ban Phát Triển Xây Dựng, thì khoảng 10% ngân sách, tức từ 5-8 tỷ đô la, đã lọt vào túi tham quan. Theo cưụ chủ tịch thượng viện Thái là Ruchupan, cho biết chính Hải Quan nước này, mới chính là ổ tham nhũng lớn nhất với 60 tỷ Bath. Riêng nước Indonesia thì càng kinh khiếp, tham nhũng vì chẳng những đã làm cho đảng cầm quyền Golka mất địa vị, mà ngay chính TT Suharto, cũng bị kết tội tham nhũng tới 10 tỷ đô la, mất chức, đền tội. Tiếp tới TT Wahid cũng thân bại danh liệt vì tham nhũng.

Nước Nhật giàu có văn minh, cũng không thoát khỏi nạn tham nhũng tàn phá, mà tai tiếng nhất là sự vỡ nợ gần 1000 tỷ đô la, tiền đầu tư xây dựng tại các Ngân hàng, đã lọt vào tay các băng đảng Mafia Nhật Bản. Đặc biệt nhất là Đại Hàn, hai cựu tổng thống Chu Đô Hoan và Rô The U, cùng nhiều cựu viên chức của chính phủ, cựu chủ tịch tập đoàn Kim Woo Choong của tập đoàn Daewoo, cũng ra tòa vì dính líu tới tham nhũng. Tuy nhiên tất cả các nước trên, nếu so sánh với tệ nạn tham nhũng củaTrung Cộng, thì chẳng nhằm nhò gì. Tính chung từ năm 1990 đổi mới mở cửa, đã có 277.000 vụ tham nhũng lớn nhỏ. Những nhân vật chóp bu tại Bộ Chính trị như Trần Hy Đồng, Thành Khắc Kiệt, Từ Bỉnh Tùng, Dương phương Lâm... là chánh phạm, đại diện chế độ. Ngay tại Mỹ, chính cựu TT Bill Clinton, cũng bị mang tiếng rất nhiều vì tiền bạc khi còn tại chức, nhất là vụ biến Tòa Bạch Ốc, thành khách sạn, để lấy tiền.

http://www.tinparis.net/icone/puce_rs.gif VỤ RỬA 10 TỶ ĐÔ LA CỦA NGA
Tháng 8-1999, cơ quan FBI của Mỹ đã khám phá được một vụ án có liên quan tới chuyện rửa tiền, do mafia Nga và đường dây tội phạm quốc tế chủ xướng. Trong vụ này, cơ quan điều tra đã khẳng định là bọn tội phạm Nga đã lọt được vào cơ cấu tài chánh của Tây Âu. Nhờ vậy, chỉ trong vòng 1 năm từ tháng 3-1998 tới tháng 3-1999, qua Ngân Hàng Âu Châu, Mafia đã chuyển rửa hàng tỷ đô la vào Ngân Hàng Bank Of New York. Do số tiền rửa lên tới 10 tỷ đô la, nên cả TT Clinton và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), cũng phải nghi ngờ, đó là số ngân khoản của chính phủ Nga, đã vay từ Qũy IMF, để hồi phục và cải cách kinh tế NHƯNG chính miệng tổng thống Nga lúc đó là Eltsin phủ nhận và cho rằng tin đồn, chỉ là một âm mưu chính trị.

Tại Mỹ, ngân khoản trên thuộc về công ty Venex do một người Nga có quốc tịch Hoa Kỳ là Peter Berlin làm chủ. Theo báo cáo, chỉ từ tháng 10-1998 tới tháng 3-1999, đã chuyển tiền vào Bank Of New York, gần 4,2 tỷ đôla. Điều lạ, là ngân hàng này không bao giờ báo cáo chuyện chuyển tiền nghi ngờ này, cho cơ quan Bài Trừ Tội Phạm của chính phủ Mỹ. Theo hồ sơ của FBI, giám đốc công ty Venex là Peter Berlin, chỉ là thuộc hạ của Trùm Mafia Nga là Semen Mogilevich. Số tiền rửa gần 10 tỷ đô la, bằng nửa ngân sách của Liên Bang lúc đó. Nội vụ được điều tra và cũng chìm dần vào bóng tối, không thấy báo chí Hoa Kỳ nhắc tới khi Putin lên chức TT Nga.

** CHUYỆN TÀI SẢN CỦA MARCOS **
Trước khi bị hạ bệ vì tham nhũng, TT Philippine là Estrada do lợi nhuận, đã ra lệnh ngưng chiến dịch của chính phủ, đã kéo dài từ 12 năm qua, trong việc di tìm chứng cớ để thu hồi lại kho tàng của Marcos, tích lũy từ những năm làm tổng thống Phi. Do sự cố trên, mà vợ của Marcos là Imelda, không còn phải đóng kịch, trái lại to miệng xác nhận là vợ chồng bà ta đã có một tài sản rất lớn tới vài trăm tỷ, hiện do bằng hữu thân tín, đứng tên giùm. Đã vậy, Imelda còn lớn lối cho biết, đã đệ đơn đòi hợp thức hóa và thu hồi số kho tàng trên. Hành động trên, đã được nhiều quan tòa tại Manila xem đây là trò điên loạn, của một người đàn bà đang dựa vào quyền lực của TT Estrada, để làm sống lại một bi kịch của đất nước, bị bọn sâu bọ đục khoét tận tuyệt.

Mới đây trên tờ The Philippine Daily Inquirer: ’nếu còn đếm được tiền, thì đừng nói là mình giàu‘. Ngoài ra còn công khai cho báo chi biết, mình có cổ phần 12,8 tỷ đô la, đã đầu tư trong các đại công ty lớn của nước Phi như Manila Electric Co, Philippine Airlines và Tập đoàn San Miguel Corp. Tất cả cũng đều do bàn tay cuả TT Estrada tạo thành, vừa để trả ơn cho Imelda cũng như Chủ tịch tập đoàn San Miguel Conjuangco, qua những số tiền to lớn ủng hộ, giúp ông ta thắng cử. Tóm lại, TT Estrada đã lợi dụng quyền lực của mình, đã làm không biết bao nhiêu tội ác, nhỏ là bao che cho tập đoàn bọn nhà giàu trốn thuế, chạy tội ác. Nhưng quan trọng nhất là Y vì lợi nhuận được hứa hẹn chia chác, đã nhắm mắt làm càn, bao che cho tội ác, giúp cho Imelda Marcos công khai, lấy lại kho tàng, mà chồng Y thị đã ăn cắp trong khi làm tổng thống. Cuối cùng Estrada đã đền tội cũng nhu thân bại danh liệt một đời.

http://www.tinparis.net/icone/puce_rs.gif SĂN TÌM HÀNG TỶ ĐÔ LA CỦA BẠO CHÚA NIGÉRIA
Sani Abacha là tổng thống của Nigéria, một quốc gia ở Tây Phi, có nhiều dầu lửa. Trong 5 năm cầm quyền, Abacha gần như là một bạo chúa, độc tài và tham ô, đã vơ vét gần hết tài sản của đất nước, lên tới 5 tỷ đô la. Số tiền tham nhũng trên, bạo chúa đả tẩu tán khắp các ngân hàng phương tây và được bao che cẩn thận.

Ngày 8-6-1998, lúc mới 53 tuổi, Abacha đã bị chết bất đắc kỳ tử, vì dâm dục quá độ. Theo tài liệu Abacha chết vì thượng mã phong, trong lúc hành lạc với ba kỷ nữ người Ấn Độ. Sau đó, Abacha bị dân chúng Nigéria tố cáo vì tội tham nhũng, đánh căp tài sản của đất nước. Tháng 7-1998, Maryam là vợ góa của Abacha, muốn đi cầu nguyện cho chồng tại thánh địa Saudi Arabia. Nhưng cuối cùng Y thị đã bị chận bắt tại phi trường Kano, với 39 valy đầy bạc. Theo báo chí quốc tế, đây là một cuộc săn tìm kho tàng lớn nhất của tên bạo chúa Abacha.

Đây cũng là hậu quả sai lầm của người Mỹ, quen dùng tiền để nuôi dưỡng những tên hôn quân bạo chúa, cúi đầu làm theo ý mình. Tại VNCH, suốt 20 năm chinh chiến, cứ nói là chính quyền bợ đít Mỹ nhưng thật ra, tất cả cũng vì muốn có viện trợ, có súng đạn, có gạo cơm, để chống cuộc xâm lăng của cộng sản đệ tam quốc tế. Thảm kịch tháng 4-1975, Hoa Kỳ bán đứng miền Nam bằng cách cúp viện trợ và VNCH mất nước. Bài học của lịch sử còn đó, chẳng lẽ không làm xúc động và thức tỉnh người Việt Quốc Gia, trước đại họa thiên cổ của Dân Tộc Hồng Lac hay sao?

2. TỪ HỒ CHÍ MINH TỚI NĂM CAM, BẢN CHẤT củaMỘT CHẾ ĐỘ HUNG TÀN

Theo tổ chức phi chính phủ Transparency International, có trụ sở tại Berlin, thủ đô của nước Đức, qua báo cáo cho thấy VN xã nghĩa hiện nay, bị xếp gần mức chót của những nước mang tiếng tham nhũng nhất thế giới hiện nay như Bangadesh, Nigéria, Trung Cộng và thu nhâp bình quân đầu người, dưới Kampuchia chỉ ngang hàng với Lào, là quốc gia coi như nghèo nhất thế giới. Như Peter Eigen, chủ tịch tổ chức trên, thì tham nhũng hiện nay tại Cộng Hòa Xã Nghĩa VN, đã trở thành một đại dịch, không biên giới, không chừa bất cứ một ai, từ những đỉnh cao nhất trong Bộ Chính Đảng VC, cho tới hàng cán bộ thôn xã, kể luôn những thành phần chầu rìa bưng bợ. Nói chung tham nhũng bây giờ, không phân biệt món hàng, đối tượng. Cho nên tại VN ngày nay, những người có quyền trao đổi hay bán buôn tất cả mọi thứ trong tầm tay. Vì vậy, không mấy ai ngạc nhiên thấy đảng VC ngang nhiên đem đất đai biên giới, cũng như hải phận, đảo biển vùng đánh cá của Dân tộc VN, để trao đổi với Trung Cộng lấy lợi nhuận và chỗ dựa cho đảng cũng như địa vị của một vài cá nhân trong chính trị bộ.

Chống tham nhũng hiện nay là quốc sách sinh tử của hầu hết mọi quốc gia trên thế giới mà điển hình nhất là Trung Cộng, cũng là quốc gia bị tham nhũng hành hạ tận tuyệt. Trái lại tại VN, cái gọi là chánh phủ được cầm đầu bởi những người vốn xuất thân từ giới bần cùng trong xã hội. Cho nên thay vì chịu chết đói, họ đã đi làm giặc, để cách mạng cuộc sống bản thân. Bởi vậy lúc nắm được quyền lực quyền hành, những Nam Cam ngày nay, đâu có khác gì hiện thân của Nguyễn Tất Thành, Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Tô Ký, Đồng văn Cống... dựng sự nghiệp bằng cái đấm và sự hung tàn của hành động. Đảng tính chỉ là phương tiện để thực hiện nhưng chính cái chất du côn, coi thường mạng người như lá rụng, tàn nhẫn thà giết oan 3000 người hơn tha lầm 1 mạng sống và ghê gớm nhất là lời tuyên bố của Võ nguyên Giáp: ‘hy sinh vài triệu bộ đội miền Bắc, để đốt rụi dãy Trường Sơn, dọn đường vào cưỡng chiếm miền Nam, thì đảng VC cũng làm’. Đó mới là cứu cánh để VC trở thành Trùm cả nước tới nay.

Nhìn chung, những năm đổi mới tại VN từ 1990 tới nay, chỉ tạo đuợc một nếp sống mới cũng như một giai cấp đỏ giàu có, nổi bật trong hàng hàng lớp lớp phận nghèo khắp nước, chẳng những tại miền quê, xóm biển, vùng sơn cước, hải đảo... mà ngay chính trong lòng các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẳng, Cần Thơ, Phan Thiết... Đó cũng là sự mâu thuẫn giữa cái mới lố lăng đước vá viu vội vàng từ cặn bã của nền văn minh thừa mứa Âu Mỹ, và nếp cũ tạp bánh lù, trong nền văn hóa cổ của VN, suốt mấy chục năm qua, bị VC nấu cháo heo, từ chủ nghĩa Mác Lê vô thần và tư tưởng Hồ Ly Tinh lượm nhặt khắp các hè phố, bến tàu, trên mọi nẻo đường tha phương cầu thực. Nói chung đổi mới từ những con số tăng trưởng trong việc xuất khẩu gạo, nông phẩm, hải sản, dầu khí và người, để đảng trao đổi, bán chát, làm giàu. Đổi mới cũng được tính bằng số lượng tỷ triệu phú VN trong giới mafia đỏ, hiện có mặt khắp các ngân hàng thế giới

Nói chung nhờ đổi mới, mà người VN đã có mặt khắp mọi nẻo đường, trong các động đĩ tại Kampuchia, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao, Hải Nam. Nhờ đổi mới mà phụ nữ VN bị bán làm vợ hờ rất nhiều tại Vân Nam, Quảng Tây, Đài Loan và thảm nhất là việc người phụ nữ VN bị triển lãm chung với thú vật, trong hồ cá tại Tân Gia Ba, để gạ bán rẻ rúng còn hơn giá trị của hàng gại gọi tính bằng phút của Mỹ. Làm công ở đợ cho Đại Hàn, Mã Lai và ngon nhất là con cái cán bộ đảng, du học trên giấy tờ nhưng thực tế là ra nước ngoài mua chồng tậu vợ, chuẩn bị mái ấm, chuyển rửa bạc vàng, lo cho cái ngày đổi đời sắp kế, im re, không sợ bị ai trả thù. Riêng đồng bào cả nước, đổi mới cũng là đổi đời lần nữa, sạch nhà sạch đất vì các lần theo đảng nuôi tôm, nuôi cá, trồng cao su, cà phê, nuôi gà... rốt cục món nào cũng sạch tiệm, vì không ai tắm hai lần trong một dòng nước, nên đâu gạt được ai nhiều lần.

Trong nước, từ khi cải cách và đổi mới, đã có một luồng gió mới từ phương tây thổi vào làm sống dậy một nền kinh tế, đã say ngủ giấc cô miên trong vũng bùn xã nghĩa từ mấy chục năm qua nhưng đồng thời cũng đã làm băng hoại truyền thống tư tưởng quốc gia dân tộc, đã ngự trị trong tư tưởng và tâm hồn người Viêt, suốt mấy ngàn năm qua.

Những năm gần đây, do đảng và nhà nước, nhắm mắt chạy theo lợi nhuận, kiếm tiền bỏ túi, bừa bãi cấp giấy phép hay cho nhập lậu thực phẩm, đồ uống từ Trung Cộng, thiếu vệ sinh, được tạo từ những hợp chất hóa học, gây cho con người nhiều bênh nan y, trầm kha như ung thư, sinh non, dị tật... khiến cho nhiều người phải thảng thốt, tự hỏi đến bao giờ VC mới chấp nhận sự thật, để cứu mạng người?

Theo dư luận quốc tế cũng như người trong nước, tất cả đều biết tham nhũng ngày nay là một đại họa của dân tộc VN, không ai chế ngự nổi, trừ phi đập tan cái chế độ cũ, để thay vào đó một xã hội mới có công pháp và nhân tính. Dù hằng ngày, ai cũng nghe bộ máy tuyên truyền củađảng, không ngớt lên án, tố cáo, đưa ra tòa, thậm chí còn xử bắn những kẻ bị tội tham nhũng. Mặt thật đó chỉ là tuồng hát ‘đem dê tế thần’, trét phấn bôi son’ vào cái thần tượng của đảng VC, đả bị mục rữa bao năm, che lấp những tội lỗi hại dân bán nước, ức hiếp tầng lớp người nghèo khắp nước hiện nay. Nói như Lý Quang Diệu, thì tham nhũng ngày nay tại VN, không còn thuộc phạm trù về mặt đạo đức, nghĩa là không ai còn phải sợ xấu hổ về hành vi tham nhũng của mình. Trái lại người ta còn công khai khoe thành tích, bởi vì cả nước ai cũng giống nhau, cán bộ thường thì đầy túi, cán bộ có chức, địa vị thì tham nhũng theo chức địa vị..

Tất cả cũng đều do độc quyền độc đảng, lạm quyền và tham nhũng tràn lan, không cần hậu quả. Tại VN, đãng là thần linh tối cao, đứng ngoài pháp luật và lãnh đạo truyền thông báo chí, nên đảng viên lớn nhỏ, còn sợ gì ai, mà không dám tham nhũng? Người dân sống trong xã nghĩa thiên đàng, vì muốn yên thân để sống, nên chỉ còn một cách là đi cửa hậu, bắt giò và chung tiền cho cửa quyền. Nói chung VN ngày nay chống tham nhũng một mất một còn, như đảng đã chống diễn biến hòa bình nhưng đến nay chỉ mới thấy có Năm Cam và băng đảng cùng một ít cán thấp đem ra làm vật bung xung thế thôi, khiến cho trời có mắt cũng phải nhắm lại, kẻo bị đâm mù.

Nhiều câu chuyện tham nhũng làm rơi nước mắt người đọc, như vụ mới xảy tai nghĩa trang VC ở Quảng Bình, san bằng mộ thật của người chết, để lấy ngân khoản làm ma giả và mua quan tài. Tất cả chỉ có tiền, không cần biết đó là đê điền, kinh đập, cầu cống, kể cả nhà máy điện nguyên tử, xưởng lọc dầu... những nhu cầu cấp thiết, nếu cẩu thả sẽ đưa tới những đại họa cho đồng bào. Thế nhưng ngày thứ bảy 17-8-2002, tổng thanh tra nhà nước cho biết, chỉ mới ghé mắt vào 20 dự án, trong số 427 công trình, thuộc 57 tỉnh, đã khám phá ra cán bộ đảng, đã nuốt tài sản củađồng bào, hơn 4,691 tỉ đồng, tương đương khoảng 305 triêu đô la. Cho nên những vụ cầu hầm chui Văn Thánh 2 ở Sài Gòn bị sập vào tháng 7-2002 hay vụ Đập ngăn nước Hàm Thuận-Bình Thuận, chưa bàn giao đã bể..chỉ là chuyện nhỏ, đối với vấn đề tiền triệu kiếm được ở các mỏ dầu hay qua công trình xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất-Quảng Ngãi.

Kiểm tra, thanh tra, báo cáo ghê gớm như vậy nhưng rồi đâu cũng vào đó, vì bức giây động rừng, thanh tra đúng mức, sẽ lòi ra tất cả bê bối và những số tiền khổng lồ, thuộc ngân quỹ nhà nước hay tiền viên trợ, từ năm này sang năm khác, đã là một đại dịch tàn khốc, không bút mực nào ghi cho trọn vẹn. Riêng đời sống của người dân, từ nghề biển, trang trại cho tới ruộng đồng, ngoài thuế má ngập đầu phải đóng cho nhà nước, còn phải điêu đứng khổ sở vì vật giá leo thang. Trong lúc đồng lương cố định, giá thành sản phẩm tuỳ tiên qua sự định đoạt của đảng, khiến cho đồng bào ngày nay, làm thì mệt mà cái ăn không biết ở đâu mà mò.

Cá, tôm, cà phê xuất khẩu lận đận lao đao tại thị trường Mỹ, chưa giải quyết xong, thì mới đây lại khám phá đường dây, bắt giò quota dệt may, làm cho Hoa Kỳ vốn đã mất niềm tin về VN, lại càng có cớ kiếm chuyên, gây thêm khổ cho đồng bào.

Lạ nhất là không thấy trí thức khoa bảng nói gì.

Ngày 1-7-2004, Việt gian CSVN tuyên bố Việt Kiều hải ngoại đã gởi về nước gần 2,7 tỷ đô la ( Năm 2008 Việt Kiều hải ngoại gởi về gần 9 tỷ đô la). Số tiền trên tuy to nhưng cũng vẫn là riêng tư của thân nhân họ và thành phần may mắn này cũng chỉ là thiểu số, giống như hạng con ông cháu cha bác đảng. Trong lúc đó, gần như cả nước ngày nay từ nam tới bắc, đầy rẩy triệu triệu nhà nông ngoài đồng, trên nắng mưa, dưới đĩa mòng, vậy mà thu nhập cả tháng có là bao. Người làm biển Bình Thuận ngày nay, hải sản khô hạn, muốn câu mực phải ra tận đảo Phú Quý, cách bờ Phan Thiết hơn 100 hải lý. Còn cá, tôm, mon ngon thứ lạ, thì phải sắm tàu to, máy lớn, để tới Trường Sa mới có.

Còn mấy ai biết tới những bà già còm cõi, mà ngày ngày phải buôn gánh bán bưng, moi bao bì rác rưởi, để bán ký mà sống. Có ai biết tới cảnh đoạn trường của những cô gái quê, gái biển, bỏ nhà lên tỉnh làm điếm giúp cha mẹ già, mặc cho tấm thân vàng ngọc bị dầy vò trong nỗi mưa gió cuộc đời. Có những đứa trẻ bơ vơ không nhà cửa, hành khất, trộm cướp, hút sách... để mà sống... Hỡi ơi tất cả những bi kịch đời hôm nay, do ai gây ra, lại bắt đồng bào VN vô tội gánh chịu?

Thế giới ngày nay đã mỏi mệt quá rồi về những câu chuyện nhân đạo, có liên quan tới VN, ngoài sự tới đó để kiếm ăn, chia phần. Riêng người trong nước cũng quá mệt mỏi vì miếng ăn cái mặc, còn nước mắt đâu mà khóc cho thân phân mình. Bởi vậy nay đã đến lúc mọi người phải đoàn kết thực sự, chứ không phải bằng miệng.

‘Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng nước’ nhưng cảnh đổi đời lần nữa tại VN, chắc chắn phải có. Lần này do đồng bào quyết định bằng trái tim và linh hồn, chứ không phải như những bóng ma trơi, trước ngày 30-4-1975, mang tiếng là trí thức nhưng thật ra chỉ là những kẻ bội bạc, ăn cơm quốc gia, làm đầy tớ cho giặc. Rốt cục chỉ vì một chút hư danh hẻo, mà làm cầu rước VC qua sông, gây thảm kịch đoạn trường, cho cả một dân tộc.
Cái lạ của những tượng đá vô tri này, là đến nay vẫn sống trên mây và cứ ngỡ mình còn là những kẻ danh giá như khi chưa bị đời lột mặt nạ.


Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Hồ Đinh

Xóm Cồn 4-2005


Việt Báo Thứ Bảy, 1/10/2009, 12:00:00 AM

Từ Việt Nam Tới Trung Đông Qua Những Cái Bắt Tay:
DÀN XẾP HÒA BÌNH VÔ DUYÊN NHẤT TRONG LỊCH SỬ CẬN ĐẠI

Dàn xếp hòa bình cho Bắc Hàn và Nam Hàn.
HỒ ĐINH
(Bài được lưu trử trong website : www.huongvebinhthuan.org và thuvientoancau.com)
Sự kiện Tổng Thống Đại Hàn Kim Đại Trọng (Kim Dae Jung) đã bắt tay với Chủ Tịch Bắc Hàn Kim Nhật Thành II (Kim Jong II), trong cái gọi là Hội nghị thượng đỉnh Bình Nhưỡng , vào hai ngày 13-15/6/2000 để chấm dứt hận thù của dân tộc Cao Ly, kéo dài từ năm chia cắt 1948 tới nay. Qua cái bắt tay được gọi là lịch sử trên, thế giới nhìn vào bằng cặp mắt hoài nghi không mấy ai tin tưởng rằng hoà bình thật sự sẽ trở về trên bán đảo Triều Tiên.
Điều này cũng dễ giài thích vì chuyện gì có liên quan tới cọng sản trong đó có Trung Cộng,Việt Cộng,Bắc Hàn,Cu Ba.. là phải có lừa bịp, xảo trá, tham nhũng, cướp của giết người mà phần thua thiệt luôn luôn thuộc về những kẻ lương thiện. Lịch sử đã chứng minh nhều trong quá khứ nhưng nổi bật nhất vẫn là bi kịch hòa bình Việt Nam giả mạo, được ký kết tại Ba Lê ngày 27-1-1973, giữa Hoa Kỳ và cọng sản Bắc Việt, sau cái bắt tay của Kissinger-Lê Đức Tho, từ đó tới nay đã trở thành những trận cười khắp thế giới không dứt.
Gần nhất là ngày 13-9-1993 cũng diễn ra cái bắt tay lịch sử tại thủ đô Hòa Thịnh Đốn, giữa Thủ Tướng Do Thái là Yitz Rabin và Chủ Tịch Palestine Yasser Arafat, để ký kết hoà bình. Nhưng tất cả đều là những chuyện làm vô duyên nhất của người Mỹ trong lịch sử cận đại. Tại Việt Nam, ngay sau khi cái bắt tay của các phe nhóm còn nóng hổi, thì cọng sản Bắc Việt đã xua quân xâm lăng rồi cưởng chiếm VNCH.Tại Trung Đông, tình trạng chém giết giữa hai phiá sau cái bắt tay đó, càng ghê rợn và khủng khiếp, tiếp diễn mãi tới hôm nay, qua các vụ Palestine ôm bom tự sát để chết chung với kẻ thù và Do Thái trả đủa lại bằng đạn pháo, xe tăng, tàn sát dân chúng không nhân nhượng.
Nói như tờ New York Times ngày 4-11-1995 qua cái chết của Thủ Tướng Rabin, thì ' chỉ với một cái bắt tay, số phận của một dân tộc đã đưọc định đoạt.. ' ' Người xưa chìa tay ra khi gặp một kẻ lạ, để chứng minh sự trong sạch, thành thật của mình không có một thứ vũ khí nào trong tay. Theo Brian Charles Burke, thì cử chỉ xiết chặt tay nhau để chứng tỏ lời hứa của hai phía không nói suông, mà là sự bảo đảm bằng trái tim. Nhưng với ai thì còn tạm thời tin được, còn với đảng cọng sản Hà Nội, xin đừng , kẻo phải khổ lụy một đời như lịch sử đã minh chứng suốt 34 năm qua không ai không biết cho dù có ít người đã giã ngộ để chơi trò ' nối vòng tay lớn hay hòa hợp hòa giải ' với phường đạo tặc có một không hai trong giòng giống Lạc Hồng.
1- HOÀ BÌNH VIỆT NAM GIẢ MẠO, SAU CÁI BẮT TAY LỊCH SỬ TẠI BA LÊ NGÀY 27-1-1973 :
Trên cỏi đời này, thật ra không phải ai cũng gian trá lừa bịp, vẫn có không biết bao nhiêu dân tộc trên thế giới luôn đối xử với nhau bằng sự chân thành, lương thiện và chính những cái bắt tay đã bao hàm lòng tin tưởng của hai phía. Bởi vậy ngày nay, câu châm ngôn ' chúng ta bắt tay nhau về việc này', đã trở nên phổ quát trong mọi văn kiện giao dịch thương mại.
(Hinh Kissinger và Lê Đức Thọ đang bắt tay)
Trong quá khứ, cũng đã có nhiều cái bắt tay được xem như biểu tượng của sự hòa giải chân thành. Năm 238 trước tây lịch (TTL), hai Hoàng Đế La Mã Balbinus và Pupienus Maximus, đã cho khắc hình cái bắt tay lên đồng tiền đang lưu hành lúc đó.
Tại Hoa Kỳ năm 1775, trong buổi lễ ký thỏa uớc giữa Chính phủ liên bang và các Tù trưởng Da đỏ, Tổng thống Jefferson, đã gắn cho họ huy chương có hình bắt tay. Thế chiến II kết thúc, Tướng De Galle của Pháp, đã bắt tay và ôm hôn người đại diện của nước Đức bại trận là Adenauer .
Tương tự, ngày 27-9-1945, Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái bình Dương là tướng Mac Arthur đã hội kiến và bắt tay Nhật Hoàng Hiro Hito, để biểu lộ sự hòa giải giữa hai dân tộc. Nhờ lòng vị tha này, Nhật canh tân đất nước rồi trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới và không phản bội Hoa Kỳ, từ ấy đến nay. Nhưng vào tháng 5-1954, tại hội nghị Genève ở Thụy Sĩ, Ngoại trưởng Mỹ là Foster Dulles đã thẳng thừng từ chối cái bắt tay của Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, với lý do hai nước đang có chiến tranh tại Triều Tiên. Tóm lại, trên mọi phương diện đối voí người văn minh, cái bắt tay biểu lộ sự kính trọng, lòng chân thành và cương vị bình đẳng của hai phía khi đối mặt.
Tại VN, Kissinger đã bắt đầu đi đêm với Bắc Việt ở Ba Lê (Pháp), dù lúc đó Cọng sản Hà Nội đang bị nhiều tổn thất nặng nề trên khắp các mặt trận, không thể nào thay thế kịp quân số cũng như trang bị sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (1968). Rồi tiếp theo là hành quân vượt biên mùa xuân 1970 của liên quân Mỹ-Việt, tiêu diệt cục R và các căn cứ Việt Cộng trên lãnh thổ Kampuchia. Chính những chiến thắng to lớn này của VNCH lại trở thành các tai họa cho chính phủ Nixon, do bọn phản chiến gây ra khắp nơi tại Hoa Kỳ. Do trên, từ năm 1971 cho tới lúc tàn cuộc, chính sách của Hoa Kỳ đối với VNCH luôn biến chất theo tình hình chính tri tại Mỹ nhưng Miền Nam đã trưởng thành trong khói lửa, nên đã vượt qua được hai cuộc thử thách kinh hoàng vào năm 1971, khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 ' Lùng và diệt địch 'ngay trên căn cứ đầu nảo của Bắc Việt tại Lào. Theo các nhà quân sử và những tài liệu tuyệt mật vừa được công bố, thì dù QLVNCH không được sự yểm trợ của không lực Mỹ theo lời hưa, lại đối mặt với một quân số khổng lồ của miền Bắc trên 35.000 người, cộng thêm hai sư đoàn thiết giáp vừa được Liên Xô trang bị chiến xa tối tân T54 và PT76.
Hơn nữa vì mật lệnh hành quân bị tiết lộ, nên quân ta hầu như bị tấn công khắp các ngỏ ngách. Thế nhưng Tổng thống Thiệu đã phản ứng nhanh lẹ, bằng cách cho SĐ1BB vào chiếm Tchepone như đã hứa, rồi ra lệnh rút hết quân về, bất chấp sự phản đối của Kissinger-Nixon.
Mùa hè năm 1972, Bắc Việt lại mở cuộc đại chiến long trời lở đất vào Quảng Trị, Bình Định, KonTum,An Lộc.. dù Lê Đức Thọ và Kissinger đã đi đêm 12 lần tại Ba Lê, kể từ tháng giêng 1969. Rồi cũng như mọi lần, QLVNCH đã đơn độc chiến đấu, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ Miền Nam trong lúc đó tại Ba Lê, Kissinger đã đồng thuận với Bắc Việt một kế hoạch hòa bình, mà theo đó Mỹ cho phép bộ đội Bắc Việt được ở lại miền Nam, để tiếp tục cuộc xâm lăng, còn Mỹ thì rút hết về nước.
Sau này qua các tư liệu của Department of Defense,United States-Vietnam Relations 1945-1975 được công bố, mới biết tổng thống Nixon tung hỏa mù để gạt Tổng thống Thiệu bằng cách trước khi ký hiệp định, đã leo thang chiến tranh, thả mìn Hải Phòng, dội bom Miền Bắc, gây tin tưởng ảo nơi Chính phủ VNCH, để khỏa lấp lập trường Mỹ sẳn sàng chấp nhận một cuộc ngưng bắn tại chỗ, bỏ hẳn điều khoản bắt Hà Nội phải cùng Hoa Kỳ rút quân hổ tương và không duy trì một cuộc thặng dư quân đội nào tại miền Nam như họ đã làm tại Âu Châu và Nam Hàn.
Tóm lại cái bắt tay ngày 27-1-1973 giữa Kissinger và Lê Đức Thọ tại Ba Lê, chỉ để ngưng bắn lúc đó và thả tù binh, lợi cho Hoa Kỳ mà làm hại cho cả một dân tộc VN lẫn Kampuchia, Lào trên bán đảo Đông Dương, bị đắm chìm trong cùm gông nô lệ cọng sản quốc tế, do trên thế giới mới bảo đó là một cái bắt tay vô duyên nhất của người Mỹ trong lịch sử nhân loại.
(Nguyễn Thị Bình ký hiệp định Ba Lê 1973)
2- TỪ OLSO ĐẾN TRẠI DAVID, NHỮNG CÁI BẮT TAY LỊCH SỬ VÔ DUYÊN, TRONG HOÀ BÌNH TRUNG ĐÔNG :
So về diện tích và dân số (8,020 dặm vuông hay 20.772km2 với 4,5 dân), Do thái chỉ là một chấm nhỏ giữa các quốc gia Trung Đông như Ai Cập,Thổ nhỉ Kỳ và Ả Rập hoàn toàn theo hồi giáo, lúc nào cũng muốn tiêu diệt nước này. Nhưng từ ngày lập quốc năm 1948 cho tới nay, Do Thái luôn luôn làm bá chủ trong vùng, nhất là hiện nay trong tay có vũ khí nguyên tử và cả tàu ngầm trang bị đầu đạn hạt nhân, đưọc điều khiển từ xa, mà tờ Times Sunday số ra ngày 18-6-2000 đã công bố.
Như vậy Do Thái là nước thứ ba trên thế giơí đứng sau Mỹ-Nga có vũ khí này. Sự kiện càng làm các nước Ả Rập trong vùng Vịnh thi đua tìm kiếm vũ khí mới, khiến cho tình hình thêm nát bấy hiện nay tại Trung Đông, qua màn hỏa mù tranh dành đất đai giữa hai dân tộc Irael và Palestine. Theo tin tức từ Anh, hiện Do Thái có từ 100-200 đầu đạn nguyên tử, bốn tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân và người Do Thái đã nói thẳng không chút e ấp, vũ khí này để chọi với Ba Tư, cũng như bất cứ nước nào tấn công vào lãnh thổ mình, bằng chứng là năm 1973, khi bị Ai Cập và Syria tấn công, Thủ Tướng Do Thái đã ra lệnh lắp đầu đạn tầm gần và chỉ còn chút xíu nửa là khai hỏa,nếu bộ binh bị thất trận.
(Bắt tay giữa Do Thái và Palestine)
+NHỮNG MỐC THỜI GIAN XUNG ĐỘT GIỮA PALESTINE VÀ DO THÁI
Thế chiến thứ hai chấm dứt, người Do Thái khắp nơi trên thế giới qua tổ chức Sion, lũ lượt kéo về miền đất hứa, khiến LHQ phải ra nghị quyết ngày 29-1-1947, chia đôi miền Palestine thuộc Anh, thành hai vùng , trong đó phần trên dành cho nước Do Thái được ra đời vào ngày 14-4-1948, chấm dứt hai ngàn năm sống lang bạt khắp bốn phương trời, sau khi đất Thánh Jerusalem bị Thổ tàn phá năm 70 sau TL.
David Bengurion là vị thủ tướng đầu tiên của nước này, tuyên bố tại thủ đô Tel Aviv về sự sự độc lập của xứ sở. Ngày hôm sau, liên quân Ả Rập tấn công tân quốc gia nhưng bị đánh bại vào tháng giêng 1949, khiến cho 750.000 người Palestine, phải tị nạn chính trị lần đầu tiên tại Cisjordanie, Gaza và các nước Hồi giáo quanh vùng.
- Sau khi Tổng thống Ai Cập Nasser tuyên bố quốc hữu hoá kênh đào Suez nên ngày 3-10-1956, liên quân Anh,Pháp,Do Thái tấn công Ai Cập và chiếm Port Said. Nội vụ sau đó được giải quyết, khi Liên Xô và Mỹ can thiệp để quân LHQ vào trấn đóng vùng Sinai.
- Năm 1964, tổ chức giải phóng Palestine ra đời và sau đó được LHQ công nhận là đại diện chính thức cho người Paleatine hiện vô tổ quốc.
- Cuộc chiến sáu ngày bắt đầu từ ngày 5-6-1967, Do Thái đại thắng liên quân Ả Rập, có cả Iraq, chiếm được nhiều đất đai của các nước bại trận, gồm có Đông Jerusalem, Cisjordanie, Gaza,Sinai và cao nguyên Golan. Chiến cuộc gây nên làn sóng tị nạn chính trị lần thứ hai cho dân lưu vong Palestine tại các vùng chiến cuộc.
- Ngày 6-10-1973, trong lúc cả nước Do Thái đang cử hành lễ Đại Xá, thi Ai Cập-Syria bất thần tấn công nước này. Chiến cuộc ác liệt giữa hai phía, kéo dài trong hai tuần lễ, cuối cùng Irael đẩy Ai Cập-Syria ra khỏi Sinai và GoLan. Trong lúc đó tổ chức PLO do Abou Nidal cầm đầu lai bước vào con đường khủng bố, không tặc.nhắm vào Do Thái và các nước liên hệ mà đứng đầu là Mỹ và Âu Châu. Năm 1972, tổ chức Tháng tư đen sát hại 11 lực sĩ Do Thái tham dự Thế vận hội tại Munich, Tây Đức, càng đào sâu thêm sự thù hận giữa hai dân tộc.
- Ngày 11/9/1977 đánh dấu sự hòa giải đầu tiên tại Trung Đông khi Tổng Thống Ai Cập là Sadate chịu sang thăm đất thánh Jerusalem và đối thoại với Thủ tướng Do Thái Menahem Begin tại trại David năm 1978. Hòa bình giữa hai nước đã dược ký kết ngày 26-3-1979 và dù Tổng thống Sadate bị ám sát chết năm 1981, Do Thái vẫn trả lại sa mạc Sinai cho Ai Cập năm 1982.
- Ngày 6/6/1982, Do Thái tấn công Liban. Hầu hết các lực lượng PLO kể luôn lãnh tụ Arafat chạy sang Tunis.
- Sau đó, người Palestine mở mặt trận Intifada, dùng đá làm vũ khí, nhắm vào thường dân và quân đội Do Thái, làm náo loạn và kinh hoàng khắp dải Gaza. Cuộc chiến du kích bắt đầu giữa Palestine và Israel.
- Ngày 30/10/1991, qua sự can thiệp của Mỹ và Liên Xô, các nước thù nghịch Do Thái, Liban, Syria, Jordanie và Đại diện PLO chịu đối diện với nhau tại Madrid, Tây ban Nha, mở màn cho các giải pháp hòa bình của Do Thái-Palestine về sau.
+ TỪ OLSO ĐẾN TRẠI DAVID, CÔNG DÃ TRÀNG TRONG SỰ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT DO THÁI-PALESTINE
Từ năm 1978 tới nay, đã có không biết bao nhiêu người chết vì hòa bình Trung Đông, trong đó có Tổng Thống Ai Cập Sadate và Thủ tướng Do Thái Rabin. Lịch sử đã không lập lại một nền hòa bình thật sự mà Do Thái và Ai Cập đã đạt được năm 1982, qua những cuộc đi đêm, đàm phán, bắt tay giữa hai dân tộc thù nghịch đang cùng đối mặt trên vùng đất Palestine. Máu lại bắt đầu đổ vào năm 2000, sau cuộc thương lương 14 ngày tại trại David thất bại. Cuộc thăm viếng của tân Thủ tướng Do Thái Sharon tại Đồi Đền ở Jerusalem, châm ngòi cho một trận chiến mới, tiếp diển suốt 54 năm qua, kinh hoàng trong cảnh Palestine nổ bom cùng chết và thương tâm nhìn tăng pháo Do Thái tan sát không nhân nhưọng.
- Tại thủ đô Olso, Na Uy năm 1993 :
Sau bao nhiêu lần đi đêm, cuối cùng Chủ tịch tổ chức giải phóng Palestine (PLO) Yasser Arafat và Thủ Tướng Do Thái Itzhak Rabin cũng đã thỏa thuận với nhau về một tiến trình hòa bình . Hiệp định trên được gọi là Olso, đưọc hai phía kỳ kết vào ngày 13-9-1993 tại Toà Bạch Ốc Hoa Kỳ, gồm phần chính là Do Thái phải rút khỏi Gaza và thành phố Jéricho ngày 13-12-1993, chuyển giao quyền hành chánh cho nhà nước Palestine để nước này lập quốc hội ngày 13-7-1994.
- Tại Le Caire năm 1994 :
Ngày 4-5-1994, Palestine và Do Thái lại ký hiệp định Le Caire, ấn định thời hạn cuối Do Thái phải rút hết quân ra khỏi Palestine là năm 1999, ngoài ra còn có các vấn đề người tị nạn, biên giới nhưng nhức nhối nhất vẫn là chủ quyền tại Jerusalem, mà hai phía đều dành.
- Olso II năm 1995 :
Năm 1995, Do Thái và Palestine lại ký hiệp định Olso II tại Ai Cập và phê chuẩn ở Hoa Kỳ, chung qui cũng chẳng có gì mới mẻ so với các hiệp ước cũ . Sự kiện càng rắc rối thêm khi Benyamin Netanyahu, người từng chỉ trích hiệp ước hòa bình Olso lại đắc cử Thủ Tướng Do Thái. Rồi tiếp theo, hai phía lại ký thêm các hiệp ước Hébron 1997, Wye river 1998, Chaarm el-Cheikh 1999.. cuối cùng bị khựng lại vì các điểm bất đồng không thể khai thông được, đó là vấn đề người tị nạn Palestine, hiện có chừng 3,5 triệu người đang sống trong các trại tị nạn khắp Trung Đông, hoặc phải đưọc trở về nguyên quán hay nhận tiền bồi thường thay thế. Thứ đến là việc thành lập quốc gia Palestine và sau cùng là khu định cư người Do Thái trong đất Palectine và chủ quyền tại Thánh địa Jerusalem.
Ngày 5-7-2000, Hoa Kỳ đích thân tổ chức một hội nghị thượng đỉnh giữa Thủ tướng Do Thái là Ehoud Barak và Chủ tịch Palestine Arafat tại trại David, nơi nghĩ mát của Tổng thống Mỹ tại Maryland. Hội nghị kéo ài 14 ngày trong bí mật, có sự tham dự của Tổng Thống Mỹ là Bill Clinton và Ngoại Trưởng Albright nhưng mọi cố gắng dàn xếp vẫn không kết quả, do trên hai phía không ký kết một hiệp ước nào.
Sau đó ngày 25-7-2000, Hoa Kỳ đã chính thức thông báo về cuộc họp thượng đỉnh giữa Hoa Kỳ-Do Th1i-Palestine, gôm 5 điểm trong đó quan trọng nhất là nhắc Do Thái và Palestin phải tuân hành theo các nghị quyết 242 và 338 của LHQ cũng như hai nước trên muốn có hòa bình vĩnh cửu, phải có sự đồng thuận của Hoa Kỳ..
Từ đó đến nay, chiến tranh lại tiếp diễn dử dội , khiến cho ngày nào cũng có người chết, đa số là thường dân vô tội của cả hai phía, như mới đây ngày 22-6-2002, ba trẻ em Palestine và mười mấy học sinh Do Thái chết trong đan thù, vì bắn nhau và bom tự sát.
Theo tin của nhà báo Akiva Eldar, thì Arafat vừa tuyên bố với Do Thái là chịu chấp nhận chủ quyền khu Jewish ở cổ thành Jerusalem và bức tường phía tây, đồng thời rút lại đòi hỏi hồi hương 4 triệu người Palestine tị nạn nhưng vẫn duy trì việc hồi cư gần 300.000 Palestine tại Liban. Tất cả đều là kế hoạch của Clinton năm 2000 nhưng có trể không ? vì tin mới nhất cho biết, Hoa Kỳ nhất quyết đổi ngựa giữa đường, bất chấp sự phản đối của Ai Cập, Liên Âu,Nga và nhiều nước Hồi giáo . .
Bắt tay nhau để cam kết xoá bỏ hận thù giữa hai dân tộc và hòa bình toàn vùng, hai ông Arafat và Rabin, người bị ám sát chết, kẻ làm con vật tế thần, dù bị thất bại nhưng muôn đời Họ vẫn là anh hùng và ít nhát hai người cũng đã thật tình tôn trọng tư cách lẫn nhau. Còn Lê đức Thọ và Kissinger cũng bắt tay nhưng chỉ để biểu lộ cái chiến thắng bất lương nhờ sự xảo trá gian lận vì cả hai đã gạt đưọc hết mọi người. Một cái bắt tay làm hại cả một dân tộc, tiếng xấu biết lấy gì trang trải cho sạch đây ?
Đừng nghe những gì cọng sản nói, cho nên chẳng ai ngạc nhiên khi nghe tin Bắc và Nam Hàn bắn giết nhau dữ dội trên biển Hoàng Hải hay vu Bắc Hàn đem vấn đề bom nguyên tử để kiếm ăn. Cũng đừng giận dử qua các tin tức như cơm bữa về việc Nguyễn tấn Dũng đã theo chân Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng ký kết hiệp ước bán nước cho Tàu đỏ qua cái gọi là cắm mốc kết thúc cuối năm 2008.
Không biết bao giờ Người Việt mới có được cơ hội như người Do Thái hiên ngang chống lại kẻ thù của mình để tự bảo toàn quê cha đất tổ và giòng giống Lạc Hồng trước nguy cơ bị Trung Cộng diệt chủng và xóa tên trên bản đồ Đông Nam Á.
Tài Liệu Tham Khảo :
- Theo Reader's Digests
- Le Monde, Le Figaro,Libération 2000,2001,2002
- Việt báo..
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Giêng 2009
HỒ ĐINH

No comments:

Thời Sự "Nóng"





------------------------------------------

---------------------------------------------------------
Vân Anh -Ngày 1 tháng 10 Hà Nội Chính Thức Bán Nước Cho Bắc Kinh
----------------------------------------