Bà Triệu Ẩu lúc 19 tuổi đã quyết chí chống giặc xâm lược :
Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người."
Bà Triệu (chữ Hán: 婆趙), còn được gọi là Triệu Ẩu (趙嫗), Triệu Trinh Nương (趙貞娘), Triệu Thị Trinh (趙氏貞), Triệu Quốc Trinh (225–248), là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Sử gia Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ 15 viết:
- Triệu Ẩu (tức Bà Triệu) là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo hình, dễ hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới.[1]
- Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng đáng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu
- Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về Bắc thuộc Quảng Châu dùng Lữ Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về Nam là Giao Châu, sai Đại Lương làm thái thú, và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại.
Thứ sử Lữ Đại bèn xua quân sang đánh dẹp. Do nghe lời chiêu dụ, Sỹ Huy cùng năm anh em ra hàng. Lữ Đại giết chết Huy, còn mấy anh em thì đem về đất Ngô làm tội. Dư đảng của Sỹ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lữ Đại
Bà Triệu sinh năm Bính Ngọ (226)[3] tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân (nay thuộc làng Quan Yên [hay còn gọi là Yên Thôn], xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa).
Thủa nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng[4] ở Quan Yên.
Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt [5], bà giết đi rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc xã Tân Ninh huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.
Năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân gian khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố[6] nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.[7] Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi[8] và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân.[9]
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh[10], vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu uý, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền [11]. Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.
Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi.
Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 265
Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói:
“ Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người![13]
Về sau vua Lý Nam Đế (tức Lý Bí) khen Bà Triệu là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là: "Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".
Hiện nay, nơi núi Tùng (xã Triệu Lộc), vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc)[14] là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), người dân trong vùng vẫn tổ chức tế giỗ bà. Tại nhiều tỉnh thành trong nước Việt Nam, tên bà cũng đã được dùng để đặt tên cho nhiều trường học và đường phố; riêng tại Hà Nội, có một con đường mang tên phố Bà Triệu.
Vùng Bồ Điền, Triệu Lộc ngày nay, hiện còn nhiều di tích và truyền thuyết liên quan đến Bà Triệu và cuộc khởi nghĩa của bà. Trích giới thiệu hai truyện:
Thu phục voi trắng một ngà
Vùng núi Quân Yên lúc bấy giờ có một con voi trắng một ngà rất hung dữ hay đến phá hoại mùa màng, mọi người đều kinh sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa hãy còn lầy lội) rồi dũng cảm nhảy lên đầu voi và đã khuất phục được nó. Con voi trắng sau này được bà dùng để cưỡi mỗi khi ra trận.
Giả đá biết nói
Những ngày đầu tụ nghĩa, Bà Triệu đã ngầm cho đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao giả lời thần nhân mách bảo:
- Có bà Triệu tướng,
- Vâng lệnh trời ta.
- Trị voi một ngà,
- Dựng cờ mở nước.
- Lệnh truyền sau trước,
- Theo gót Bà Vương.
- Trong Đại Nam quốc sử diễn ca, có đoạn Bà Triệu Ẩu đánh Ngô, khái quát rất sinh động:
-
- Binh qua trải bấy nhiêu ngày.
- Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần.
- Anh hùng chán mặt phong trần,
- Nữ nhi lại cũng có lần cung đao.
- Cửu chân có ả Triệu kiều,
- Vú dài ba thước tài cao muôn người.
-
- Gặp cơn thảo muội cơ trời,
- Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.
- Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
- Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.
- Chông gai một cuộc quan hà ,
- Dù khi chiến tử còn là hiển linh.
- Hoành qua đương hổ dị,
- Đối diện Bà vương nan.
- Dịch:
- Múa giáo đánh cọp dễ,
- Đối mặt Vua Bà thì thực khó.
-
- Trong dân gian hiện cũng còn truyền tụng nhiều câu thơ ca và câu đối liên quan đến bà như sau:
-
- Ru con con ngủ cho lành,
- Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi.
- Muốn coi, lên núi mà coi,
- Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng.
- Túi gấm cho lẫn túi hồng
- Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân.
- Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
- Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
-
- Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt,
- Lục Dận Nhiều phen mắt đã vàng.
- Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc;
- Ngồi yên ngựa khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đấng nam nhi."
- (Khuyết danh)
- Một đầu voi chống chọi với quân thù, sau Trưng nữ rạng danh bà Lệ Hải;
- Ba thước vú tử sinh cùng đất nước, cho Ngô hoàng biết mặt gái Giao Châu.
- Chí sĩ Dương Bá Trạc
- Ngoài ra, trong Hồng Đức quốc âm thi tập, và trong các tập thơ của các danh sĩ như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Đôn Dự...đều có thơ khen ngợi Bà Triệu.
Một tác giả khác viết về Nữ Anh Hùng nước Nam Bà Triệu thị Trinh
Bà Triệu thị Trinh và anh đang tuyển mộ nghĩa quân và đêm đêm luyên quân trên núi. Chi dâu theo dõi chồng, biết mưu đồ của anh em họ Triệu và lén đi tố cáo với quân Đông Ngô, đổi lấy một số vòng vàng đưng cả rương! Đến một lúc bà Trinh đúng hơn là cô ( nữ anh hùng mới 19 tuổi chưa lấy chồng) biết mưu đồ anh em mình bị bại lộ, vì bị nội tuyến, bị Viêt gian tố cáo, cần phải ra tay trước. Lúc đó nghĩa quân chưa đủ túc số để tranh hùng với quân Ngô, Bà nghĩ đến con số năm mười ngàn (50,000). Nhưng dù chỉ được vào khoản một tiểu đoàn lá chưa tới một ngàn, bà quyết định phải xuất quân ngay, trước khi quân Ngô từ Mê linh kéo đại quân đến. Trươc khi xuất quân bà Triệu vào phòng chị dâu kéo đầu ra chém để tế cờ, trước mặt ngơ ngát của ba quân. Xong rồi bà vào phòng chị dâu lôi ra 1 ruơng vòng vàng của quân Ngô dùng để mua chuôc người đàn bà Việt gian phản bội dân tộc, phản bội gia đình. Nhờ lấy ít đánh nhiều, bà cũng hạ được đại đồn Huyện lỵ của quân Ngô. Rất tiếc là quá hao binh nhứt là tổn tướng, người anh cô bị thương nặng. Bà thắng trận nhỏ, nhưng lại thua trận lớn, bà không đủ thì giờ để chiêu mộ được năm mười ngàn nghĩa quân. Nếu không có Việt gian (làm nộpi tuyến) thì khi quân binh đủ mạnh bà sẽ thắng quân Ngô không khó khăn gì hết. Khi quân Ngô kéo đại quân đến, bà kéo quân phục kích và xáp trận, lấy 1 đánh với 10, nhưng vì lực lượng quá chênh lêch, nghĩa quân hi sinh gần hết, một người một voi bà mở đường máu thoát về núi và biệt tâm tich từ đó, Truyền thuyết nói bà tự kết kiểu đời mình và nơi đó có nổi lên một đồi mối khổng lồ hiện ra.
--------------
Cuộc Khởi Nghĩa của Triệu Thị Trinh (248)
Bà Triệu, tên là Triệu Trinh Nương hay Triệu Thị Trinh, được gọi là nữa anh hùng của dân tộc từ đầu thế kỷ thứ IIỊ Bà là em gái Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi Quản Yên, quận Cửu Chân (Thanh Hóa). Bà là người có sức khỏe, gan dạ và mưu trí. Năm 19 tuổi, bà cùng người anh tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lô.c-Thanh Hóa). Đây là một thung lũng ở giữa hai núi đá vôi, vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng vàọ Lúc đầu anh bà có ý can ngăn lo phận gái khó đảm đang trọng trách. Bà trả lời:
- Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không thèm cúi đầu, còng lưng để làm tì thiếp ngườị
Vì mến mộ Bà, nghĩa quân ngày đêm mài gươm luyện võ chờ ngày nổi dậy:
"Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu Ẩu cưỡi voi đánh cồng."
Năm Mậu Thìn (248) nghĩa quân bắt đầu tấn công quân Ngộ Các thành ấp của quân Ngô đều bị đánh phá tan tành. Quan lại cai trị kẻ bị giết, người chạy trốn. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Thứ sử Giao Châu hoảng sợ bỏ chạy mất tích. Sử Ngô phải viết: "Toàn thể Giao Châu chấn động".
Mỗi lần ra trận, Triệu Thị Trinh thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn quân xông trận, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô khiếp sợ đã phải thốt lên: "Vung giáo chống hổ dễ, Giáp mặt vua Bà Khó."
Tin khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Châu Giao mất tích, vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận, một tướng từng trải qua bao trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử. Lục Dận đem thêm 8000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh mạnh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số bị giao động mắc mưụ Dù vậy, Bà Triệu vẫn kiên cường đánh nhau với giặc không nao núng. Sau 6 tháng chống chọi và có kẻ phải bội, bà đã bỏ mạng trên núi Tùng (Hậu Lô.c-Thanh Hóa). Bà chỉ mới 23 tuổị
Vua Lý Nam Đế sau này khen và là người trung dũng, và sai lập miếu thờ, phong là: "Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân." Đền thờ đó nay ở Phú Điền-Thanh Hóa.--------------Bà Triệu (225-248)
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
(Thơ ca dân gian)
I. Thân thế:Triệu Thị Trinh là người nhan sắc
Cùng anh là Quốc Đạt cầm quân (Hồ ĐắcDuy)
Bà Triệu sinh năm 225 và tuẫn tiết vào ngày 21 tháng 2 năm 248 (Mậu Thìn).
Thuở nhỏ, cha mẹ mất sớm, bà ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn có khí phách, đức độ, và thế lực ở miền núi Quân Yên, huyện Cửu Chân; nay thuộc huyện Nông Cống (Thanh Hóa).
Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và mưu trí. Người ta kể lại rằng khi người thân hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: "Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị!".
Năm 19 tuổi, bà cùng người anh tập hợp hơn ngàn nghĩa quân, lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Đấy là một thung lũng ở giữa hai núi đá vôi, vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng phía Bắc vào.
Sách Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim ghi:
Sử ta chép rằng bà Triệu là người huyện Nông-cống bấy giờ. Thủa nhỏ cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu quốc Đạt, đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi. Bà ấy là một người có sức mạnh, lại có chí-khí và lắm mưu-lược. Khi vào ở trong núi chiêu mộ hơn 1,000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Anh thấy thế mới can bà, thì bà bảo rằng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp người ta."
Sách Giai thoại về phụ nữ VN cho biết một chi tiết khá thú vị liên quan đến câu nói trên như sau:
Triệu Quốc Đạt có người vợ tên Đinh Nữ Vĩ rất đanh đá. Với cô em chồng này, bà ta chẳng ưa gì nhưng bề ngoài bà vẫn thơn thớt nói cười. Bà muốn ghép cho em trai của bà là Đinh Vạn Úng để làm nàng hầu. Một hôm Úng tới chơi, buông lời bỡn cợt. Trước đông đủ mọi người, Trinh đã nói câu vừa ghi trên khiến ai nấy thảy đều kinh ngạc và thầm thán phục. Dĩ nhiên tên Úng háo sắc kia phải thẹn đỏ mặt, kiếm đường lủi mất.
Sách Hỏi Đáp lịch sử quyển I thì cho rằng người vợ của Triệu Quốc Đạt có tên là Giang Thị. Và Triệu Thị Trinh đã giết chết người chị dâu này, khi biết được bà ta lén lút gửi thư báo cho giặc hay anh em mình đang chuẩn bị khởi nghĩa.
II. Ở đó cho đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về thời kỳ bà chuẩn bị khởi nghĩa chống giặc Ngô.Lệnh Bà sức khoẻ đang xuân
Cỡi đầu voi dữ diệt quân bạo tàn
1. Chuyện bà Triệu thu phục được con voi trắng một ngà:
Người dân ở thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công còn truyền lại câu chuyện như sau: Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của bà Triệu.
Tiếng tăm cô gái 19 tuổi trị voi rừng vang dội khắp nơi, càng thu hút thêm nhiều người đi theo bà.
2. Chuyện "Đá biết nói":
Sau khi bà Triệu huấn luyện thuần thục chú voi hung dữ trên, những ngày đầu tụ nghĩa, bà đã ngầm cho đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao giả lời thần nhân mách bảo:
Có bà Triệu tướng,
Vâng lệnh Trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.
Từ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi kia biết nói, báo hiệu cho dân chúng biết bà Triệu là "thiên tướng giáng trần" giúp dân, cứu nước. Vì vậy hàng ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau xuống Phú Điền dựng căn cứ.
“Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu mũi mác cho chồng trẩy quân”
(Thơ ca dân gian)
3. Và rất nhiều câu chuyện nửa hư nửa thực, thể hiện tình dân đối với công cuộc khởi nghĩa của bà Triệu:
Như chuyện một ông già mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để ngâm ngợi cổ vũ dân chúng đứng dậy cứu nước. Một bà cụ hàng nước cố xin cho con gái được theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng chuối với chum nước chè xanh cho nghĩa binh đang trẩy quân qua đỡ lòng, đỡ khát.
Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền thuyết và di tích về một bà nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngô (ám chỉ bà Triệu)
Vùng Khang Nghệ còn có truyền thuyết nói rằng:
Thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa Lạch Trường. Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá tre. Một chàng trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với bà Triệu và trở thành dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông nước, vì anh đi chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận. Giặc Ngô đang ăn mừng thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi cả mấy vạn xác thù...
Lại có câu chuyện đền Cô Thị ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hễ ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu của cô đang ở trong quân dinh bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được phép bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào ống tay áo của chàng...
Và nơi trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô.
Dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc... tương truyền là tên cũ còn lại khi bà Triệu đắp lũy xây thành. Ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm bà Triệu, rước bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn bà làm chủ tướng..
III. Khi binh lực đã lớn mạnh, năm 248, bà Triệu đem quân tiến đánh các quận huyện của bọn quan lại nhà Ngô.Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt
Lục Dận nhiều phen mắt đã vàng.
(Thơ ca dân gian)
* Năm mậu-thìn (248) vì quan lại nhà Ngô tàn ác, dân gian khổ sở, Triệu quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu-chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh. Các thành ấp của quân Ngô đều bị đánh phá tan tành. Bọn quan cai trị kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Sử sách của nhà Ngô phải thú nhận: “[/I]
Bà chỉ huy nghĩa quân vô cùng gan dạ. Ra trận, bà thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, nên đời sau, thường gọi tên bà là Nhuỵ Kiều tướng quân (Nữ tướng yêu kiều), là Lệ Hải bà vương (Vua bà vùng biển mỹ lệ, có sách cho rằng vì quân Ngô hễ trông thấy bà là sợ đến phát khóc, nên chúng gọi bà bằng cái tên này).
Bấy giờ, ở phương Bắc, Tôn Quyền mặc dầu đang phải lo đối phó với hai nước Ngụy, Thục nhưng vẫn phải phái viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên danh tướng Lục Tốn), một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử.
Lục Dận đem 8.000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Bà Triệu và anh là Triệu Quốc Đạt liền cử tướng lên biên giới chặn đánh nhưng thất bại. Sau khi chiếm lại được lỵ sở Giao Châu, y đem quân xuống phía Nam tiến đánh Bộ Điền, đại bản doanh của nghĩa quân. Trong lúc nguy nan thì anh bà không may lâm trọng bệnh rồi mất (sách Giai thoại về phụ nữ VN, tr 10 ghi ông Đạt tử trận)
Tướng sĩ bèn tôn bà lên thay anh giữ quyền chủ tướng tối cao.
Khi ấy, Lục Dận vừa đánh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ giao động mắc mưu địch.
Mặc dầu vậy, Triệu Thị Trinh vẫn kiên cường chối bỏ lời dụ dỗ của giặc, tiếp tục đánh gây cho giặc nhiều tổn thất, khiến chúng phải run sợ bảo nhau:
"Hoành qua đương hổ dị
Đối diện Bà Vương nan"
(Nghĩa là: cầm giáo chống lại hổ còn dễ, chứ đối địch với bà Triệu thì thật khó).
Mặc dầu vậy, sau năm sáu tháng chống chọi, vì có kẻ phản bội, bà đã phải tự vẫn trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa) để khỏi sa vào tay giặc hung ác.
Truyền thuyết dân gian kể rằng, về sau có kẻ phản bội, mách với Lục Dận rằng bà là nữ tướng ái khiết úy ô (yêu cái trong sạch, ghét cái nhơ bẩn). Quân Ngô liền trần truồng tiến đánh bà. Bà hổ thẹn nên thua trận. Sau khi giao lại binh quyền cho 3 tướng họ Lý, khấn với đất trời “sinh vi tướng, tử vi thần”, bà lên núi Tùng tuẫn tiết.
Lúc bấy giờ bà mới 23 tuổi.
IV. Phần cuối:Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc
Ngồi yên ngựa, khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đáng nam nhi
(Câu đối nôm không rõ tác giả)
Tương truyền bà Triệu mất đi, nhưng anh linh vẫn không tan. Nhiều đêm dân làng các vùng Bồ Điền, Phú Điền vẫn nghe văng vẳng trên không trung tiếng voi gầm, ngựa hí và tiếng cồng thúc quân dóng dả.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh
(Đại Nam quốc sử diễn ca - Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát)
Năm Lý Bôn khởi nghĩa, ông mộng thấy Bà Triệu hẹn sẽ giúp sức để tiêu diệt quân xâm lược nhà Lương. Quả nhiên, trong một trận giao tranh, bỗng có một cơn lốc xoáy nổi lên. Bọn tướng giặc là Tôn Quýnh, Lý Tử Hùng tối tăm mặt mũi, bị Lý Bôn đánh cho tan nát.
Khi Lý Bôn lên ngôi (Lý Nam đế), nhớ ơn bà phù trợ, đã sai lập miếu thờ, xây lăng mộ bà ở làng Phú Điền (Thanh Hóa) và phong bà là: "Bật chính Anh liệt Hùng tài Trinh nhất phu nhân".
Tại nơi bà mất là núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa vẫn còn di tích lăng mộ của bà, cách nơi bà mất không xa (ngay bên Quốc lộ 1A) là khu thờ bà. Hằng năm, vào ngày 19 đến ngày 24 tháng 2 âm lịch, người dân trong vùng vẫn tổ chức tế giỗ bà để tưởng nhớ về người con gái anh hùng của dân tộc Việt.
Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.
Thơ văn truy niệm bà từ xưa đến nay rất nhiều. Xin trích một để thay cho lời kết:
Vịnh miếu Bà Triệu
Miếu tạc bia truyền lẫn khói nhang
Nghìn thu oanh liệt Triệu Kiều quang
Cờ vàng khỡi nghĩa quân Ngô khiếp,
Voi trắng tung hoành giặc Lữ tan.
Khăn yếm những mong đền nợ nước,
Áo cơm bao quản gánh giang sơn.
Núi Bồ làm dấu ghi thiên cổ,
Máy tạo hưng vong cũng khó lường.
Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục
Bùi Thụy Đào Nguyên soạn
Long Xuyên, 18/1/2008
Nơi mục từ Bà Triệu, Wikipedia tiếng Việt, phần thảo luận có người giải thích: Triệu Ẩu là “bà già Triệu” hoặc “nữ tù trưởng Triệu”. Nghĩa đầu, tôi thấy chưa ổn vì thực tế bà Triệu chỉ là một cô gái trẻ.
Ở trang dongdu.org, có người cho biết: Vì cuộc khởi nghĩa này đã làm bọn giặc Ngô kinh hãi, và cũng vì người Tàu thấy dân Việt hết sức thờ kính bà Triệu, gọi bà là Bà Vương nên ghét lắm, bèn tìm cách nói xấu bà như nói bà vú dài đến rốn, gọi bà là Triệu Ẩu (趙嫗: dịch ra tiếng Việt là con mụ họ Triệu).
Theo Lịch sử VN tập I, nxb Đại học & THCN, năm 1983 do các tác giả Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh biên soạn thì huyền thoại về một người phụ nữ có “vú dài ba thước” vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện “Tẩy thị phu nhân”, “Tiểu quốc phu nhân” đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước….Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà…
1 comment:
Bạn đọc xin mạn phép góp vào đây bản Hùng Ca bất diệt của Tác giả Lý Đông A, để biết ngày tận diệt của ngụy quyền Việt gian cộng sản phải đến:
Chính Khí Việt:
Một ngày lạnh Nước nguời không tri kỷ
Ta vỗ án thét thành ca chính khí
Ðông thê thê như gió thổi u hồn
Thấu buốt tận lòng người trong cốt tủy
Lòng sống chết buồn vui bừng nổi dậy
Thoắt lăm le như giục người chọn lấy
Năm nghìn năm, làn máu bén dạt dào
Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy
Tiếng vang vang như thần kêu quỷ hét
Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét
Gọi quá khứ vị lai những u hồn
Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết
Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết.
Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc
Sông Bạch Ðằng sóng vỗ thuyền cắc cắc
Non Chi Lăng gió cuốn rừng đao cung
Gò Ðống Ða xương người phơi man mác
Thuở Sát Thát chàm vai thề đầu mất
Ngày Bình Ngô nổi cờ không khuất tất
Khi Cần Vương nhổ mặt lũ gian hùng
Lúc Cứu Quốc lòng bôn ba uất uất
Thà làm ma nước Nam hơn vua Bắc!
Ðầu chẳng còn, quyết không đương cắt tóc!
Lửa đốt mình cho trọn nợ non sông!
Dây thắt cổ cho tròn trung xã tắc!
Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết
Những anh hồn xưa, nay, mai oanh liệt
Mở nguồn sống xưa, nay, mai Nước nòi,
Muôn nghìn đời dạt dào Chính Khí Việt!
Chính khí Việt khắp đất trời bàng bạc
Chính khí Việt trong máu người Hồng Lạc!
Gió thê thê quất dậy hồn phục hưng
Gươm Vạn Thắng cứu nước nòi giết giặc!
Chính khí Việt là hồn gươm Vạn Thắng
Thép tôi với máu đào hun lửa nóng,
Và Ðại Việt muôn năm cả toàn dân
Vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng!
Vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng!
Lý Đông A
***
Trân trọng
Tay Chơi Hà Nội.
Post a Comment