Chính Danh
[Chìa Khóa Cuộc Tranh Đấu Của Người Việt]
Sĩ Tỉnh
A. Học Thuyết.
Cách đây 2, 500 năm, nhà đại hiền triết Trung Hoa là Khổng Tử chu du thiên hạ, lưu lạc khắp nơi mong bình định các nước đang lâm chiến trong Thời Chiến Quốc. Ngài không có binh hùng tướng mạnh, không có vàng bạc châu báo, vậy mà ảnh hưởng của ngài bao trùm thiên hạ. Các đệ tử hỏi ngài làm sao Thầy tay không mà mong chi phối các vua quan, võ tướng, chính khách. Khổng Tử điềm nhiên trả lời: “Ta Dùng Chính Danh”. Các đệ tử ngơ ngác hỏi Chính Danh là gì, Thầy Khổng Tử nói vỏn vẹn “Gọi Đúng Sự Việc, Nghĩ Đúng Và Làm Đúng”. Đi đâu nhà hiền triết họ Khổng cũng đem “Chính Danh” ra thuyết giảng và áp dụng vào việc làm. Các triết gia thời đó công nhận rằng “Chính Danh” là học thuyết thực tiễn, hiệu quả, và có đủ sức bình định thiên hạ.
Suốt lịch sử mấy ngàn năm qua, thuyết Chính Danh vẫn còn đó, vẫn được một số Chính Trị gia đem ra thực hành, nhưng số người kiên nhẫn thì ít, khi chưa thấy hiệu quả nhiều người đã ngã lòng bỏ cuộc. Những người theo Võ Đạo thì cho rằng Chính Danh là học thuyết không thực tế, phải dùng tới sức mạnh của kiếm cung mới đổi được thời cuộc. Một số khác đánh giá Chính Danh là mơ hồ, không tưởng, không thể áp dụng vào thời buổi nhiễu nhương của thế kỷ mới, có lẽ trước đây vào thời sơ khai thì Chính Danh có hiệu lực, nhưng bây giờ học thuyết đó chỉ nói để chơi chứ không thể đem ra để Trị Quốc An Dân. Cũng có một số khác, kiên trì hơn, suốt đời theo đuổi Chính Danh trên con đường Lập Nghiệp, Tu Thân, Tề Gia và Trị Quốc, tuy có thành công phần nào nhưng vì thiểu số đạo đức bị chìm vào một đa số gian manh, bất chính, xã hội vẫn xáo trộn, bất an.
Ở bối cảnh xã hội Việt Nam trước đây, Chính Danh vẫn là một học thuyết đặt căn bản vào đạo lý, dùng lương tâm làm ngọn đuốc soi đường đưa người làm Chính Trị tới mục đích Tề Gia, Trị Quốc. Con Người Chính Danh, thấm nhuần Khổng Giáo, từng lãnh đạo đất nước chúng ta qua 9 năm giông bão là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã thành công đưa Chính Danh vào Quốc Sách trên mọi mặt Chính Trị, Xã Hội, Kinh Tế, Giáo Dục. Ông nâng Tứ Thư, Ngũ Kinh, tôn sùng đạo lý, chủ trương trị quốc, an dân bằng đường lối Nhân Trị thay vì Pháp Trị hay Bạo Lực Trị. Những sai trái mà người ta gán cho chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa thực ra là những lời cáo buộc dồn vào đám Đồ Đệ “Cần Lao” dưới Thời Tổng Thống Diệm chứ không phải những việc làm trực tiếp do ông chủ trương. Chính Danh là con đường đưa TT Diệm từ một hưu quan đi tới vai trò lãnh đạo, để từ đó đưa ông Tu Thân, Tề Gia, và Trị Quốc. Lịch sử đã đánh giá những năm cầm quyền của TT Diệm chính là bài thực dụng của Chính Danh, tuy có thành công trên mặt Tu Thân và Trị Quốc, nhưng có thể đã khiếm khuyết về Tề Gia mà đưa đến thảm bại.
Những guồng máy Chính Trị kế vị TT Diệm sau khi ông bị hạ sát có áp dụng Chính Danh hay không trong việc cai trị Miền Nam, giờ đây ai cũng lượng định bằng cách so sánh các nhà Chính Trị sau năm 1963 với người tiền nhiệm. Có những người cố mang thuyết Chính Danh vào việc làm nhưng không thành công vì trong lương tâm họ không có Chính Danh. Một số khác đôi lúc muốn chứng tỏ mình có Chính Danh để cầm quyền, nhưng cuối cùng vẫn để lộ một bộ mặt thiếu Chính Danh, thiếu Đạo Đức. Tuy vậy, những nhà cai trị Miền Nam từ 1963 tới ngày mất Miền Nam vào tay Cộng Sản vẫn không ai bị buộc tội là theo chính sách Bạo Lực Trị như nhóm cầm đầu Miền Bắc, những kẻ mà lịch sử không phải chờ lâu vẫn có thể kết án là Không Có Chính Danh, Vô Đạo Đức, Bất Chính và Bất Nhân. Đối với Cộng Sản dù ở Nga, ở Tàu, ở Cam Bốt hay ở Việt Nam, học thuyết Chính Danh không có chổ đứng, vì căn bản của Chính Danh là đạo lý, mà nếu không có đạo lý thì làm sao có Chính Danh? Vì không có Đạo Đức và không có Chính Danh mà Cam Bốt phải chịu cuộc tàn sát khủng khiếp nhất trong lịch sử của nhân loại tù 1975 tới 1979.
B. Hiện Tượng.
Người Việt Quốc Gia, sau cơn Hồng Thủy 1975, đã nhận ra rằng dù nghèo khổ, dù vất vả, dù lo âu, dù phải đương đầu với trăm ngàn cơ cực, cuộc sống Miền Nam trước 1975 vẫn còn tự do cho họ thở, cho họ nói, cho họ sống tự do, khác với cuộc sống của người dân Miền Bắc trong gông cùm Cộng Sản từ năm 1954. Hệ luận đó đã đưa chúng ta tới những kết luận khác trong suy tư Chính Trị rằng, dù có bất mãn với chế độ Miền Nam trước đây, cuộc sống Miền Nam vẫn hơn cuộc sống ở Bắc Việt. Ông Diệm, Ông Thiệu dù có xấu đến đâu cũng không tệ bằng Hồ Chí Minh, và người Lính Miền Nam dù có tệ đến đâu cũng không ác bằng thằng Lính Nón Cối. Khi biết được điều đó thì đã muộn, gần hai triệu Người Việt nhận được bài học chân lý đó sau khi nếm mùi Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa hoặc đã Bị Nướng 9, 10+ Năm Trong Trại Tù. Lúc đó người Miền Nam mới hiểu ra rằng các chế độ Miền Nam đã có Đạo Đức, có Chính Danh, dù không trọn vẹn.
Khi ra khỏi nước, sống một thời gian ở xứ người và làm quen với tình trạng vật chất, con Người Việt Nam thay đổi từ bên ngoài vào đến bên trong, từ diện mạo cho tới tư tưởng, và xa dần căn bản Chính Danh của luân lý Đông Phương. Người ta cho rằng Chính Danh không đem lại cơm áo, xe hơi, nhà mới. Người Việt bác bỏ Chính Danh và những nguyên tắc đạo lý căn bản để tập cho mình một “mác” mới về xã hội, về công danh, về đường lối suy tư. Một số quên rằng mình đã một thời sinh ra ở đất Việt, uống nước từ dòng sông Việt, ăn cơm từ cánh đồng Việt Nam, và tiếng khóc chào đời là tiếng Việt Nam. Đánh mất Chính Danh, họ đánh mất luôn đạo lý cổ truyền, để hồ hởi lột xác mình cho hết dấu vết Việt Nam, mong mình làm một người Mỹ, một người Pháp, một người Anh qua tên tuổi mới, quốc tịch mới, và một linh hồn lai căng mới Tất cả những suy tư trên đây đã được biểu lộ ra trên phương diện cá nhân, xã hội, Chính Trị và cả linh hồn.
1. Chính Danh Cá Nhân:
Chính Danh cá nhân nằm trong tên người, chúng ta mang từ lúc cha sanh mẹ đẻ. Tên người là một thứ căn cước cá nhân mang giòng máu huyết của giòng họ, của bộ tộc, của quê quán, của những hoài bảo ước mơ gia đình. Khi sinh ra, cha mẹ, ông bà mong con cháu đạt những thành quả được gói ghém trong tên khai sanh. Chúng ta không cần phải diễn nghĩa thêm ở đây, vì tên Việt Nam nào cũng có họ hay tên tộc, tiếp theo là tên đệm để bổ nghĩa cho tên riêng, họp lại thành một tên kép chứa đựng hy vọng của mẹ cha. Tên Việt Nam xuất xứ từ Văn Chương, có thể là Văn Chương Việt Hán, trong khi tên Anh ngữ, Pháp ngữ xuất xứ từ thánh kinh, có điển tích nhung không có ý nghĩa gì. Người Việt ra nước ngoài nhiều khi vì vọng ngoại mà thay tên mình bằng tên Mỹ, tên Pháp, và có người còn Vọng Ngoại đến độ thay đổi cả họ hay tên tộc, lấy cớ rằng cần đổi mới hay cho dễ đọc. Đây là những lý do ấu trĩ và thiếu Chính Danh, tự đồng hóa mình với những người sinh ra ở một phần đất khác không có đạo lý giống mình. Nhiều cha mẹ đã mắc phải lỗi lầm là chìu con cái khai tên trẻ sơ sinh bằng tên Mỹ hay đổi tên con khi nhập tịch, đẩy con cái vào Văn Hóa xa lạ và mất gốc, tưởng như vậy là Cấp Tiến.
Một số người khác, mắc Bệnh Vọng Ngoại, thường ghi tên mình theo lối Việt nhưng ký tên theo lối Mỹ, tạo một thứ Lai Căng Không Ra Voi, Không Ra Chuột. Đây là một số người mang tư cách lãnh đạo Tập Thể hay có thành tích tranh đấu và hướng dẫn Người Việt, nhưng tự đánh mất giá trị Đạo Đức và Chính Danh, đưa đến tình trạng người ký khác với người được ghi tên trong tin tức hay tài liệu. Không biết những Nhà Lãnh Đạo này, muốn ký tên theo Lối “Lai”, có đủ Đạo Đức để lãnh đạo người khác hay không, khi tên ông viết khác, chữ ông ký khác. Ở Miền Tây, lãnh tụ Hồ Anh Tuấn mang chữ ký là Tuấn Anh Hồ. Ở Miền Đông, Ông Nguyễn Mậu Trinh ký tên Trịnh Mâu Nguyễn. Hai vị này là lãnh tụ, có tên đăng khá thường xuyên trên báo chí, đồng bào biết nhiều, nhưng hai ông không nhận mình là Người Việt thì hai ông lãnh đạo ai? Có thể ông sẽ nói là người Mỹ ký như vậy. Vâng, Mỹ nó ký như vậy, ông là Người Việt thì cứ ký theo lối Người Việt được không? Và người Mỹ không có luật nào bắt buộc ông phải ký theo lối của họ.
Về Chính Danh Cá Nhân, chúng ta phải thắc mắc tại sao rất nhiều báo chí Việt, đăng tin cho Người Việt đọc, quảng cáo cho Người Việt mua, mà cứ phải đăng tên các chuyên viên Bảo Hiểm, Địa ốc, Thẩm Mỹ theo lối Mỹ? Người Mỹ đâu biết tới mấy ông bà mà ông bà cứ phải khai là Jane Tran, Peter Vo, Jennifer Lam, Scott Nguyen .... Quý Vị đăng quảng cáo Quý Vị là chuyên viên Việt Nam phục vụ Người Việt tận tâm như Quý Vị nói trong quảng cáo. Nếu Quý Vị đăng tên là Trần Kim Dung, Võ Phúc, Lâm Kim Tuyết, Nguyễn Ngọc Chung ... thì chắc chắn khách hàng Việt Nam tin tưởng vào sự phục vụ của Quý Vị hơn.
Về phương diện Chính Danh Cá Nhân, người viết xin tỏ lòng ngưỡng mộ giới y sĩ Việt Nam đã nêu gương sáng cho các giới khác khi Quý Vị ghi tên trên bảng quảng cáo y nguyên theo lối Việt. BS Phạm Hoàng Trung, ĐYS Dương Lai Cảnh, BS Hồ Tấn Phước, Nha sĩ Phạm Thị Thanh v.v…. Có vị còn ghi thêm dưới tên mình “Nguyên y sĩ Sư Đoàn ..., nguyên nha sĩ Bệnh viện ...” thật dễ thương và đáng thán phục hơn nữa là nhiều vị y sĩ mang tên rất mộc mạc, hoàn toàn Việt Nam, vẫn đăng đầy đủ như hồi con trong nước. Họ phục vụ bệnh nhân Việt, việc gì phải mang mầu sắc Mỹ Hóa, do đó các bệnh nhân rất thương mến, và đối với họ việc quảng cáo “Bác Sĩ Việt Phục Vụ Người Việt” là thừa.
2. Chính Danh Tập Thể:
Bước chân ồ ạt của hơn một triệu Người Việt tới Hoa Kỳ đã tạo nên một cảnh “Tạp Pí Lù” Đoàn Thể, Hiệp Hội, Tổ Chức, Cơ Quan Cộng Đồng, kể tất cả phải lên tới con số hàng ngàn, nhưng không ai giống ai, không hội nào thuộc về hội nào hay có liên hệ với một tổ chức nào. Một số hội không mệnh danh là hội mà lấy tên là “Gia Đình” cho vừa lạ vừa có vẽ thân thuộc. Một số tổ chức mang tên đầy lịch sử mà chỉ làm công tác ái hữu. Bên trên các hội, các nhóm, các đoàn lại mọc ra một số “Hội Nghị” hay “Nghị Hội”, Phong Trào, Mặt Trận, Chiến Dịch, rồi lại thêm một số Chính Phủ, Hội Đồng rập khuôn theo công thức chính quyền hồi còn ở trong nước. Hầu hết các tổ chức mang tên rất lớn, hoạt động một thời gian rồi “Ngủm” không kèn không trống và cũng chẳng ai thắc mắc hay đi đám tang. Tất cả chỉ là một Màn Kịch làm cho vui, Lấy Tiếng, và đôi khi Để Lấy Tiền.
Vì hầu hết các tổ chức Người Việt không có Chính Danh và không Định Hướng được mục tiêu, họ hoạt động lấy lệ, và rất tự hào. Niềm tự hào đó chỉ nằm trong Tự Ái, ai cũng muốn có một Hội Riêng mà mình làm Chủ Tịch chứ không muốn làm Phó cho một người khác để họ chỉ tay năm ngón. Ai cũng muốn có một danh xưng quan trọng để ký giấy tờ, mặc dù giấy tờ chỉ là mấy lá thư thăm hỏi nhau. Không Ông Chủ Tịch nào muốn đặt hội mình vào hệ thống một hội khác để làm việc cho hữu hiệu hơn, và càng lại không muốn hội mình mang cùng tên hội khác khi sáp nhập chung. Đây là bài toán thách đố mọi người làm Chính Trị thật sự, làm sao qui tụ được các hội vào một hệ thống, mang một danh xưng, chung một hướng đi, và chia một ngân sách. Hai mươi tám năm qua, chúng ta đã tự xé lẻ thành nhiều mảng nhỏ, yếu ớt rời rạc, chê bai nhau rất nặng lời. Bây giờ làm sao ghép lại hết thành một khối duy nhất để chung sức mạnh?
Chỉ riêng một danh xưng đã là vấn nạn không ai giải quyết được. Nếu tất cả mọi hội đều mang tên một danh xưng, thí dụ “Cộng Đồng Người Việt Tự Do”, “Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNTD” v.v... thì chúng ta mới biểu dương được sức mạnh của một tập thể gắn bó và đoàn kết. Hiện nay hiệp hội Việt Nam trên đất Mỹ, đất Pháp hay bất cứ một quốc gia nào có Người Tị Nạn cư ngụ là một rừng cây rậm rạp nhưng không có hoa, có trái, ai muốn “Ba Cây Chụm Lại Thành Hòn Núi Cao” quả là một việc đội đá vá trời. Gần ba thập niên qua, chưa ai làm được việc này kể cả mấy tổ chức tự xưng là “Nghị Hội Toàn Quốc” hay “Chính Phủ”. Nhiều người cho rằng càng nhiều hội càng tốt, điều đó có thể đúng khi nào nhiều hội mà cùng làm chung một việc, cùng mang chung một danh xưng, và cùng hướng về một mục tiêu. Tình trạng nhiều hội mà mỗi hội đi theo một hướng, chém vè nhau thì thật là vô vọng, chứng tỏ chúng ta không phải là một khối đồng nhất mà chỉ là một tập thể hỗn tạp, chia rẽ nặng nề. Do đó nhu cầu cấp bách hiện nay là làm sao để tất cả các tổ chức Người Việt Quốc Gia cùng mang một danh xưng và thống thuộc một hệ thống hàng dọc, có tôn tri trật tự, phục vụ một lý tưởng chung, chứ không thể phân tán hàng ngang một cách vô kỷ luật như hiện nay.
3. Chính Danh Văn Hóa:
Văn Hóa là sức sống của một Dân Tộc, với một nền tảng căn bản là truyền thống, ngôn ngữ, sinh hoạt, y phục, đồ ăn, cách sống và các định chế giáo dục, kinh tế, xã hội v.v.... Không có một tập thể nào mà không có Văn Hóa, và ngược lại không có một nền Văn Hóa nào không xuất phát từ một tập thể dù nhỏ, dù lớn. Điển hình cho Văn Hóa của bất cứ tập thể nào có lẽ nỗi bật nhất là ngôn ngữ, qua chữ viết, qua cách truyền thông, qua văn chương, báo chí và biểu tượng diễn đạt ý kiến và tư tưởng. Ngôn ngữ là chìa khóa chính để biểu lộ tâm tư, và cũng là chiếc xe chuyên chở những tâm tư ấy.
Việt ngữ, qua 4 thế kỷ từ ngày được phát minh, đã được kiện toàn và đạt tới mức tinh vi, huyền dịệu để làm một môi trường truyền đạt. Về cấu trúc, Việt ngữ có nhiều điểm tinh vi hơn các ngoại ngữ. Về âm thanh, Việt ngữ đứng trên mọi thứ tiếng khác nhờ hệ thống dấu mang một thứ hòa âm trong từng chữ mà không một ngôn ngữ nào trên thế giới có thể sánh được. Về từ ngữ, Việt ngữ có đầy đủ khả năng diễn tả mọi ý niệm dù phức tạp, dù trừu tượng. Về chuyên môn và kỹ thuật, Việt ngữ dựa vào danh từ Việt Hán để diễn tả mọi ý tưởng khoa học, toán học với đầy đủ chính xác. Thế mà, tới nay nhiều ngòi bút Việt ngữ vẫn coi thường Việt ngữ trong một mặc cảm tự ti rất buồn cười. Nhìn vào nhiều tờ báo, nhiều tài liệu, chúng ta vẫn thấy người viết dùng ngoại ngữ để diễn tả thay cho tiếng Việt, coi Việt ngữ như không đủ khả năng truyền Thông. Đây là một sai lầm lớn về Chính Danh Văn Hóa, khi người viết không coi trọng tiếng Việt mà chỉ coi trọng tiếng nước ngoài. Ngay đến lối viết tiếng Việt cũng đã bị pha trộn để thành lai căng, mất gốc.
Tại sao chúng ta đánh mất Chính Danh về Văn Hóa? Câu trả lời là một số Tác Giả, Phóng Viên, Ký Giả tới nay vẫn còn nghĩ tiếng Việt yếu kém, thiếu sâu sắc, thiếu hiệu lực diễn tả, cần phải có tiếng Pháp, tiếng Anh trợ lực. Một số khác có lẽ cho Pháp ngữ, Anh ngữ mới đủ sức diễn tả các ý niệm cao, các danh từ khó, vì tiếng Việt nông cạn, thô sơ. Họ lầm nghĩ rằng Anh, Pháp ngữ mới là ngôn ngữ của người trí thức học rộng biết nhiều, còn tiếng Việt là ngôn ngữ của giới bình dân hay người thất học. Không biết chúng ta có nên trách họ trọng người khinh mình, hay tội nghiệp họ vì bộ óc của họ lệch lạc vì vọng ngoại. Khi đọc một trang báo, thấy đầy rẫy tiếng Anh chua vào để diễn giải tiếng Việt, không ai không thấy bực mình, nhất là bài viết của một vài người trẻ, trong 1 trang có tới 20 tới 30 lần dùng Anh Ngữ. Nếu tác giả viết trên một tờ báo Việt tại sao phải cần tới ngoại ngữ? Nếu tác giả thích dùng ngoại ngữ thì tại sao không viết cả bài bằng ngoại ngữ và giao cho một tạp chí Anh ngữ đăng? Hơn 50 năm rồi mà ngày nay mấy bộ óc nô lệ vẫn còn sót lại, mà một số Người Việt vẫn không biết mình đang sĩ nhục tiếng mẹ đẻ vì tự đánh mất Chính Danh Văn Hóa.
Trên một bình diện khác, Chính Danh Văn Hóa đòi hỏi con người trung thành với các truyền thống tập tục của những thế hệ trước, trong đó có cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đây là một đề tài tranh cãi vì nó có liên hệ tới Chính Danh Chính Trị. Đúng vậy, con người mang Chính Danh Văn Hóa giữ lối sống gắn bó với tinh thần dân tộc cổ truyền, không ai bị ảnh hưởng vì những lý thuyết ngoại lai mệnh danh là ý thức hệ. Một Dân Tộc nặng Chính Danh Văn Hóa mãi mãi ràng buộc mình với lề lối sinh hoạt có lâu đời đã được chứng minh là giá trị tinh thần của Bộ Tộc hay Quốc Gia. Những kẻ đánh mất Chính Danh Văn Hóa thường chạy theo tư tưởng mới, lối sống mới, ý thức hệ mới, ngụy trang dưới chiêu bài “Cách Mạng Văn Hóa” hay “Cách Mạng Bạo Lực”.
4. Chính Danh Chính Trị:
Đây là đề tài sôi nổi nhất trong trường hợp Người Việt chúng ta, nhất là khi Chính Danh Chính Trị có phần nào trùng hợp với Chính Danh Văn Hóa.
Ở Việt Nam trước ngày 30/4/75, dân ta có Chính Danh Văn Hóa và Chính Danh Chính Trị, với những nét đặc thù của dân tộc tính, và một chính thể dựa trên căn bản Nhân Trị. Bắc Việt, kể từ 20/7/54, không hề có Chính Danh Văn Hóa mà cũng chẳng có Chính Danh Chính Trị, vì nhóm lãnh đạo Miền Bắc bỏ hầu hết những truyền thống của tổ tiên để quân sự hóa dân chúng phía Bắc Vĩ Tuyến 17, du nhập chủ thuyết Cộng Sản từ Nga và Trung Cộng để mê hoặc đàn cừu. Miền Nam, dưới chế độ tự do đầy đủ, sống với một guồng máy điều hành hoạt động trên luật pháp lấy chữ “Nhân” làm gốc để giáo huấn hơn là trừng phạt con người. Guồng máy đó chỉ thay đổi phần nào kể từ 1/1/60 khi cái Quái Thai do Hà Nội đẻ ra là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” ra đời, xé bỏ Hiệp Định Geneve để phá rối an ninh công cộng, đàn áp nông thôn, mong nuốt giải đất Miền Nam Vĩ Tuyến 17, và nuốt thật vào năm 1975. Đối với Cộng Sản, không cần Chính Danh Chính Trị mà chỉ cần cái gọi là “Đạo Đức Cách Mạng, Lấy Bạo Lực Và Gian Trá Làm Nồng Cốt”.
Nhưng Chính Danh Chính Trị là gì? Nó bắt nguồn từ Chính Danh Văn Hóa và nếu không có CHÍNH DANH Văn Hóa thì không có CHÍNH DANH Chính Trị. Hai ý niệm này song song với ý niệm “không có lửa thì không có khói”. Ở trường hợp Người Việt Lưu Vong, CHÍNH DANH Chính Trị đòi hỏi sự gắn bó với dân tộc tính, với chính thể tự do, với lập trường Quốc Gia Không Cộng Sản, và với danh nghĩa của Người Tị Nạn Cộng Sản. Muốn có CHÍNH DANH Chính Trị, chúng ta cần phân biệt giữa Quốc Gia và Cộng Sản, giữa Vàng với Đỏ, giữa Trắng với Đen, giữa Dân Tộc Tính và Đảng Tính, và quan trọng hơn hết, điều kiện cần phải có là Chính Danh Văn Hóa. Trong một tập thể hỗn tạp, phân tán như sắc dân Việt lưu vong như hiện nay, nhiều người không phân biệt đâu là Xanh đâu là Đỏ, không biết ai là Cộng Sản ai là Quốc Gia, không nhìn thấy đâu là Chính Danh đâu là ngụy danh, cứ nhắm mắt heo thời kiểu “Tới Đâu Hay Tới Đó”. Đây là một trạng thái đáng lo ngại, thường xảy ra trong những năm đầu của kỷ nguyên lưu vong, nhưng tưởng ba thập niên qua cũng là quá đủ để chúng ta ý thức lại vấn đề Chính Danh Chính Trị này:
a. Phân Biệt Vàng Đỏ: Bỏ nước ra đi, chúng ta có xác định được mình ở thế đứng nào không? Về Văn Hóa, chúng ta tự nhận là Người Việt, nhưng về Chính Trị, xác nhận thế là chưa đủ. Một Người Mỹ cứ nghĩ rằng mọi Người Việt đều giống nhau vì người nào cũng mũi tẹt, da vàng, nói tiếng Việt. Đây là điều ngộ nhận trong những bộ óc, con mắt mù lòa của Người Ngoại Quốc vì họ không biết ai là Người Việt theo Cộng Sản và ai là Người Việt Chống Cộng Sản. Bổn phận của chúng ta là phải xác nhận mình thuộc khối Người Việt nào, chú không thể chỉ nói tôi là Người Việt. Quý Vị là Người Việt Vàng hay Người Việt Đỏ. Quý Vị là Người Miền Nam Tị Nạn Chính Trị ở Nước Ngoài, hay Quý Vị là cán bộ Cộng Sản đi sang đây làm gián điệp. Trên ngực áo Quý Vị có đeo một Lá Cờ Vàng để tự xác định thế đứng Chính Danh Chính Trị của mình mà không cần giải thích? Xin Quý Vị nói với người ngoại qưốc nào hỏi, “Tôi là Công Dân Việt Nam Cộng Hòa, không phải là Người Việt Hà Nội” Một cách bình dân, xin Quý Vị nói với bạn bè Quý Vị (nếu là người sinh quán Bắc Việt) “Tôi là Bắc Kỳ 9 Nút, không phải loại Bắc Kỳ 2 Nút”. Như vậy Quý Vị mới nêu rõ được Chính Danh Chính Trị của Người Việt Quốc Gia.
b. Nhận Diện Màu Đỏ: Năm 1979, Đặng Tiểu Bình, muốn cứu Trung Hoa lục địa ra khỏi vòng cô lập của thế giới, đã đổi danh xưng Trung Cộng thành Trung Quốc qua câu nói rất hóm hỉnh: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Sau đó cả thế giới bị lừa, Trung Cộng vẫn là Trung Cộng, tôn thờ Mác/Lê Nin, nhưng du khách quốc tế đổ vào Trung Cộng để giúp kinh tế Trung Cộng sống lại sau mấy thập niên lụn bại vì bị thế giới lãng tránh. Người Việt nhẹ dạ cũng đã lầm, kể cả báo chí, các đài TV, phát thanh, gọi xứ Cộng Sản Tàu là Trung Quốc, nghe rất hiền lành và vô thưởng vô phạt. Cái tai hại là Trung Cộng dấu được cái đuôi đỏ để vồ tiền thế giới, và giờ đây thế giới vẫn đổ tiền vào Trung Cộng làm giàu cho kẻ thù vĩ đại đã tàn sát không biết bao nhiêu triệu người và đở đầu cho thằng Cộng Sản Đàn Em ở Hà Nội. Không có Trung Cộng thì làm sao Bắc Việt thành Cộng Sản và xâm chiếm Miền Nam? Thậm chí có cả Người Việt đem tiền vào thăm Trung Cộng để làm giàu cho kẻ thù. Quý Vị ơi, trên thế giới này không có nước nào là Trung Quốc, chỉ có Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan là đồng minh với VNCH trong cuộc chiến vừa qua, còn Trung Cộng là kẻ thù của VNCH. Vì nó mà VNCH bị khai tử. Quý Vị đem tiền vào giúp Trung Cộng thì Quý Vị còn Chính Danh Chính Trị không?
c. Thành Phố Ma: Báo chí Việt Ngữ khi loan tin tức ở trong nước, vẫn ngây thơ gọi Sài Gòn là “Thành Hồ”, tưởng như vậy là dí dõm hay hài hước. Có một số bài báo gọi đích danh Sài Gòn là TP/HCM vì theo bản tin từ VN gởi qua, đăng “Nguyên Con” một cách vô tội vạ. Thật ra đây là một điều tai hại khôn lường, giúp người đọc lâu dần quên rằng quê hương chúng ta vẫn nằm trong tay Cộng Sản và cho rằng Cộng Sản “Ngày Nay Khác Cộng Sản Ngày Xưa”. Những người viết bài đã phạm một lỗi lầm lớn là vi phạm Chính Danh Chính Trị, không hướng dẫn độc giả mà còn tiếp tay tuyên truyền cho một chế độ ma quỉ bên ngoài trông hiền lành nhưng bên trong độc ác, bạo tàn. Ở trong nước, Cộng Sản kê lưỡi dao vào cổ, người dân bắt buộc phải đổi tên Sài Gòn thành tên Con Cáo, nhưng ở đây, tại sao Quý Vị đánh mất lương tâm để tàn nhẫn gọi tên thành phố yêu quí của chúng ta là Thành Phố Ma? Một lần tôi đã nghe, trong một buổi lễ, vị linh mục đọc tên TP/HCM rồi sau đó, bị giáo dân chất vấn, biện luận rằng tên đó nằm trong chỉ thị của Tòa Thánh. Ôi Tòa Thánh nào bắt Quý Vị gọi Sài Gòn là Thành Phố Ma trên đất Mỹ này? Ở đây nếu Quý Vị cứ gọi Sài Gòn thì Tòa Thánh nào phạt Quý Vị không?
d. Tướng Của Ai: Người Việt ở Nước Ngoài rất vô tâm khi đề cập tới một số tên Cộng Sản Gộc, có tăm tiếng, không minh định rõ bọn này, dù phản tỉnh hay ngoan cố vẫn là Cộng Sản. Báo chí một đôi khi loan tin “Thủ Tướng Võ văn Kiệt, Trung Tướng Trần Độ, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, v.v...” coi như những tên này là thủ tướng, trung tướng, tổng bí thư của mình. Cách viết danh xưng hay nêu tên này rất quan trọng và khi nào mình chấp nhận nó người viết mới đặt chức vụ hay cấp bậc trước tên. Ngược lại, nó là Cộng Sản, Cấp Bậc hay Chức Vụ của nó chỉ là để phía sau, hay không cần nhắc tới. Một số báo chí Việt ngữ đã rất thận trọng và chính xác khi loan tin về Cộng Sản và đặc biệt không chấp nhận vai trò của những tên Cộng Sản này. Nhiều bản tin ghi “Trần Độ, Tướng CS”, “Thủ tướng CS Võ Văn Kiệt”, hay “Mai Văn Bằng, Đại sứ CSVN” v.v.... Điều này cho thấy người viết bản tin có Chính Danh Chính Trị, không chấp nhận Hệ Thống Cấp Bậc của CSVN khi viết tin. Trong khi đó một số báo chí khác vẫn nhập nhằng ghi chức vụ và cấp bậc của mấy tên Cộng Sản y hệt như khi loan tin tướng lãnh, viên chức chính phủ VNCH. Những người viết tin như vậy Coi Vàng Cũng Như Đỏ, CSVN cũng như chính thể VNCH, còn họ đứng giữa. Có thể họ không nhận thức được kỹ thuật viết tin để biểu lộ lập trường Chính Danh của mình.
e. Giải Phóng Hay Xâm Lăng: Tới nay, 28 năm qua, vẫn còn có người gọi ngày 30/4/75 là “Ngày Giải Phóng”. Không biết những người này có mắc bệnh tâm thần không, nhưng trong số này có cả một số cựu Sĩ Quan từng bị Cộng Sản bắt nhốt hàng chục “Mùa Thu” trong Trại Tù BV. Vài người trước đây không bị tù đầy, quen miệng vì nghe người khác nói “Giải Phóng” ở ngoài chợ thì có lẽ chúng ta không lấy làm ngạc nhiên, nhưng chữ “Giải Phóng” phát ra từ miệng một ông cựu Đại úy, hoặc Thiết tá, ăn bo bo mút chỉ ở Lạng Sơn, Cao Bắc Lạng, khi về mất cả vợ con, thì thật là một hiện tượng quái đản không ai chấp nhận được. Điều đáng ngạc nhiên hơn là khi có người gọi ngày 30/4/75 là “Giải Phóng”, người nghe vẫn thản nhiên không cải chính, không sửa lưng mà vẫn thản nhiên chấp nhận coi như không nhằm nhò gì. Hiện tượng này trước đây xảy ra rất thường xuyên nhưng nay tuy đã bớt, vẫn còn đôi khi xuất hiện, một phần vì người nói thiếu ý thức và Chính Danh Chính Trị, và người nghe bàng quan không muốn than phiền để làm mất lòng người khác, nhất là khi người đó từng là Sĩ Quan Cấp Tá “từng 10 năm đốn gỗ trên rừng”. Điều nhục hơn nữa là chính bây giờ Cộng Sản đã thú nhận xâm lăng Miền Nam, mà Người Miền Nam vẫn còn quen miệng gọi là “Giải Phóng”.
f. Tù Hay Cải Tạo: Cảnh tù đầy ở VN sau ngày Cộng Sản xâm chiếm là một hiện tượng cả thế giới đã biết, đã công phẫn. Báo chí quốc tế vẫn gọi rõ những “goulag” Việt Nam là các Trại Tù, Trại Tập Trung, giống như những địa điểm Đức Quốc Xã nhốt và tiêu diệt dân Do Thái hay quân đội Đồng Minh Thời Đệ Nhị Thế Chiến. Thế mà chính Người Tù từ những cõi chết này trở về lại gọi đó là “Trại Cải Tạo”, và những năm họ bị nhốt trong Trại Tù là “Thời Gian Học Tập”. Một số Sĩ Quan và Viên Chức chính quyền VNCH dường như trước đây không biết hay không đọc Hiệp Định Paris, trong đó có ghi rõ rằng phe Bắc Việt không được phép bắt tù các thành phần Quốc Gia Miền Nam. Để tránh chữ “Bắt Tù” và bịp thế giới, CSBV đổi các Trại Tù thành “Trại Cải Tạo” để đánh lừa dư luận và cho quốc tế thấy chúng tuân hành Hiệp Định 1973 về Việt Nam. Một số SQ/QLVNCH đã bị sập bẫy tuyên truyền của Công An, kể cả một ông SQ cao cấp là Đại Tá Nguyễn Thu Lương, trong cuốn phim “Người Lính”, gọi thời gian đi tù “Là Thời Gian Cải Tạo” và Trại Tù là “Trại Cải Tạo”. Ngược lại, Đại Tá Võ Công Hiệu, trong bộ phim “Hành Trình Tìm Tự Do”, khẳng định là ông Đi Tù, không hề nhắc tới chữ “Cải Tạo”. Trong đầu hai vị SQ cao cấp này, một từng là Lữ Đoàn Trưởng Dù, một là Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh, ý niệm Chính Danh Chính Trị thực sự đã đứng giữa Bóng Tối và Ánh Sáng.
g. Cố Tình Hay Vô Tình: Kể từ bắt đầu Thập Niên 90’s, Người Tị Nạn Việt Nam, một số thành phần Quốc Gia, Cựu Tù Nhân Chính Trị đã đánh mất thế đứng Chính Danh của mình trước dư luận quốc tế, rơi vào cái bẫy đổi mới và mở cửa của bọn gian manh Bắc Việt. Khi CSBV đói gần chết, cạn kiệt ngoại tệ, và bị Bố Liên Sô bỏ rơi, nó tung đòn “Mở Cửa” để chiêu dụ Người Việt Hải Ngoại. Những con người ngây thơ một lần bỏ nước hy sinh mạng sống ra đi trên biển cả, trên đường bộ, lũ lượt kéo nhau về thăm quê cũ, lấy cớ rằng bố sắp chết, mẹ đau, con cưới vợ, cháu lấy chồng, ồ ạt áo gấm về làng. Trước 1990, số người về tuy có nhưng ít xuất phát từ Mỹ mà chỉ từ các quốc gia Âu Châu hay Úc. Thập Niên 90’s mở màn, CSVN tung thêm chưởng để Mồi Chài Người Tị Nạn có quốc tịch Mỹ về làm ăn, buôn bán, nhưng thực ra chẳng làm ăn được gì, có người sau đó phải bỏ của chạy lấy người. Thế mà vẫn có dân Việt Hải Ngoại Huênh Hoang “Áo Gấm Về Làng”, để nhận lấy chiêu bài đĩ điếm mà Cộng Sản tặng cho ngày bỏ nước ra đi. Ngồi trên chiếc ghe ọp ẹp giữa biển khơi tưởng sắp làm mồi cho cá mập, họ thề rằng không bao giờ họ về với Cộng Sản. Nhưng chỉ một thập niên, chính những con người từng “Bỏ Phiếu Bằng Chân” để tố cáo CSVN với thế giới lại có mặt ở Sài Gòn, ăn chơi phè phởn, ôm gái ở khách sạn, hay xây nhà xây cửa cho vợ hai ở Biên Hòa. Họ cố tình hay vô tình về để ủng hộ Cộng Sản? Người Tị Nạn, hay Cựu Tù Chính Trị, về thăm đường xưa lối cũ đều biện bạch rằng: “Không, tôi về vì gia đình, vì nhà cửa, tôi không ủng hộ Cộng Sản”. Lời biện bạch mới nghe có vẽ hiền lành lương thiện ấy chẳng che dấu sự thực, một sự thực phũ phàng: Trong số tiền vé máy bay từ ngoại quốc về Việt Nam từ 800 dollars tới 1500 dollars 10% được nộp vào túi Đảng Cộng Sản Việt Nam, cho Võ văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh mua nhà ở Pháp, gửi tiền ở Thụy Sĩ, gởi con đi du học ở Mỹ, nuôi gái ở Nhật .... Số tiền khổng lồ ấy do Người Tị Nạn tặng cho Đảng đã được dùng để mua súng ở Trung Cộng, để mua tăng ở Nga, mua hoả tiển ở Tiệp, để nuôi quân ở Lào, ở Cam Bốt, để lập toà lãnh sự ở San Francisco, để lập cửa hàng thương mãi cho Đảng ở Los Angeles, để thực hiện phim tuyên truyền gửi ra cho các tiệm sách báo ở Paris, ở Praque, ở Toronto, ở New York. Tiền súng tiền tuyên truyền, tiền cho con đi học ở ngoại quốc là tiền của Quý Vị đấy. Cả số tiền khổng lồ dành cho Công An bắt nhốt và theo dõi Quý Vị cũng là tiền của Quý Vị đấy. Cái còng tay mang nhãn hiệu Made in USA để bắt nhốt BS Nguyễn Đan Quế, Ông Võ Đại Tôn, Bà Dương Thu Hương v.v... đều đã được mua bằng tiền của Người Tị Nạn Hải Ngoại đóng góp qua vé máy bay, tiền điện thoại, gửi tiền v.v….
Quý Vị có lẽ vô tình không nhận thức rằng trong các Quốc Gia Á Châu và Đông Nam Á, giá điện thoại gọi từ ngoại quốc về Việt Nam cao nhất. Quý Vị gọi thăm cha mẹ, anh em, con cháu là điều Quý Vị nghĩ tới, nhưng mỗi luồng sóng trên đường giây cũng mang vào cho Đảng một khoảng tiền mà Quý Vị không bao giờ nghĩ tới. Nếu có Chính Danh Chính Trị, Quý Vị sẽ nhận ra rằng tại sao từ một quốc gia Âu Mỹ vào Đông Nam Á, kỹ thuật cũng như nhau mà giá điện thoại vào VN cao gấp đôi nước khác. Thưa vì, trong cái thế giới mờ ám ở Việt Nam, đường giây điện thoại là một kế hoạch kinh doanh lợi hại của Đảng Cộng Sản. Từ Mỹ đi Đài Loan, Nhật, Singapore luồng sóng điện thoại đi từ vệ tinh xuống tổng đài một cách công khai, ngay thẳng. Nhưng cái đường giây từ Mỹ, từ Pháp, từ Canada về Việt Nam nó chui xuống gầm bàn rồi chạy vào phòng họp của Bắc Bộ Phủ, sau vào túi Đảng, để Đảng mua Súng Đạn, mua Xăng Nhớt, mua Biệt Thự, mua Sâm Cao Ly, mua Nhà Bắc Mỹ.
Một số đông những Cựu Tù Chính Trị Việt Nam, 28 năm sau ngày gãy súng, đã đánh mất lập trường và có người đánh mất cả liêm sĩ, quên nhìn gương những Cựu Tù Chính Trị Cuba, Bắc Hàn, Nga, BaLan v.v.... Trong lịch sử thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến, chưa có người Cựu Tù Chính Trị CuBa, Bắc Hà, Nga, Ba Lan trở về quê cũ để sống, để làm ăn hay chỉ thăm gia đình, nơi mà Cộng Sản còn cầm quyền. Họ chỉ trở về sau ngày tàn của Cộng Sản ở Đông Âu và bức tường Bá Linh bị dân Đông Đức đập bỏ, cũng như những guồng máy bạo quyền ở Đông Âu trở thành gạch vụn của quá khứ. Họ có thể tự hào nói với thế giới họ là những người không chấp nhận chủ thuyết Cộng Sản ở quê hương họ hay bất cứ nơi nào, và không thể nào trở về dưới gông cùm của kẻ thù. Có người Cựu Tù Chính Trị Việt Nam sẽ nói rằng: “Tôi về quê hương, tôi không về với kẻ thù”. Đó là một thứ luận điệu ấu trĩ mà người Cựu Tù Cu Ba, Nga, Đông Đức không chấp nhận. Ông về thăm một xứ Cộng Sản, dù là quê cũ của ông, ông phải xin Cộng Sản chấp thuận đơn xin Visa của Ông, nghĩa là ông chấp nhận bạo quyền Cộng Sản, ông phải nộp tiền lệ phí xin Visa cho Đảng Cộng Sản, ông chi tiền máy bay để 10% từ đó đi vào túi Đảng. Dù ông không biết hay không muốn biết, ông đã trực tiếp hay gián tiếp nuôi cái Đảng Cướp ngày xưa muốn giết ông, đốt nhà ông, sát hại đồng ngũ của ông và có thể kể cả cướp người đàn bà trẻ ngày xưa là vợ của ông. Bây giờ ông về sống dưới bàn tay tên cướp đó, nhận nó là Chính Quyền của ông, đóng tiền nuôi cả nhà nó thì ông còn liêm sĩ hay không? Ông từng là Sĩ Quan,QLVNCH, từng là thành phần chính quyền VNCH, ông có đọc được bài học liêm sĩ từ những ngượi tù Chính Trị Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga Sô, Đông Đức không?
h. Chính Danh Dân Tộc: Đây mới là chủ điểm trong học thuyết Chính Danh của Khổng Tử, bậc thầy của mọi suy tư luân lý Chính Trị. Chính Danh Dân Tộc là một nền tảng trên đó xây dựng mọi thứ Chính Danh khác như Chính Danh Cá Nhân, Chính Danh Văn Hoá, Chính Danh Chính Trị v.v…. Chính Danh Dân Tộc là nền móng một căn nhà trên đó có những cây cột để phân thành những Chính Danh phụ thuộc và nếu không có Chính Danh Dân Tộc, các nguyên tắc Chính Danh khác không có điểm tựa để tồn tại. Tại sao Chính Danh Dân Tộc quan trọng đến độ ấy?
Sự quan trọng của Chính Danh Dân Tộc tiềm tàng trong đời sống căn bản của mỗi người, vì không có cá nhân nào không thuộc vào một bộ lạc, một sắc dân, một xã hội, dù xã hội đó bán khai hay tân tiến. Cá Nhân là cây, Dân Tộc là rừng. Cá Nhân là Cá, Dân Tộc là Nước. Đó là tương quan vật lý, nhưng theo đó còn tồn tại tương quan tâm lý mà con người biết rằng mình không phải là một sinh vật lẻ loi mà tuỳ thuộc vào một tập thể trong đó có một lưu thông hai chiều: Cá Nhân nhận ảnh hưởng của Tập Thể, và Tập Thể tạo nên Sức Mạnh từ nhiều Cá Nhân. Cùng trong sự lưu thông đó, Cá Nhân phải chia xẻ những vấn đề chung của Tập Thể, để được trở thành một thành phần cuả Tập Thể đó. Những Cá Nhân không chia xẻ các vấn đề chung của Tập Thể là những Cá Nhân lạc lỏng, bơ vơ, vô lương tâm hay đã bị Tập Thể đào thải. Cũng có những Cá Nhân tưởng mình không cần tới Tập Thể và muốn tự đào thải vì những quyền lợi đi ngược lại với quyền lợi của Tập Thể.
Dân Tộc ta quằn quại một trăm năm dưới gót giầy của thực dân, và ngất ngư hơn nửa thế kỷ trong gông cùm của loài ma quỉ đó. Quảng thời gian dài hầu như vô tận và đau thương đã làm cho Dân Việt gắn bó với nhau để chung sống, tồn tại, và vươn lên. Vì mọi Người Việt đều chia xẻ với nhau những thương đau của lịch sử, chúng ta đã có câu nói ngàn đời còn vang bên tai biểu lộ sự gắn bó này, đó là châm ngôn: “Một Con Ngựa Đau, Cả Tàu Không Ăn Cỏ”. Châm ngôn đó nói lên một điều là không một Người Việt nào thấy đồng loại rơi vào thảm cảnh mà không mũi lòng, như một chuồng ngựa ngưng ăn chỉ vì một con ngã gục. Dưới Thời Bắc Thuộc, chúng ta chia cuộc sống khốn cùng của người bị ngoại thuộc, đến Thời Pháp dân ta cưu mang nhau để tìm ngày vùng dậy, lịch sử đã chứng minh. Ngày nay, khi 80 triệu người còn nghẹt thở trong Cơn Hồng Thủy ở quê nhà, chúng ta còn nhiều người thờ ơ đến độ vô liêm sĩ, vẫn chủ trương “Sống Chết Mặc Bay” vì gia đình mình còn may mắn. Họ biết chỉ họ may mắn là đủ, những người khác dù bất hạnh cũng không làm họ mũi lòng. Họ không có mối thù nào với Cộng Sản, vì họ cho rằng Cộng Sản chưa làm gì đụng đến cuộc sống của họ và gia đình. Gần 30 năm trước, khi lớp người vượt biển tìm tự do hy sinh mạng sống trên biển cả hay giữa vùng tử địa Cam Bốt, họ vẫn ung dung vì họ và gia đình họ đã thoát nạn, ung dung ở xứ người.
Một ngày đẹp trời nào đó, họ ung dung dẫn vợ con, họ hàng về Việt Nam chơi. Họ chơi cái gì Quý Vị thừa biết. Họ Đóng Cảnh “Áo Gấm Về Làng” để khoe những thành công gặt hái được nơi xứ lạ, vụ này cả nước đã nghe rồi. Nhưng một ngày đẹp trời nào khác, họ ung dung tìm một nơi ăn nhậu thật vui và dẫn nhau đi vào một Nhà Hàng Thái để ăn món lạ thay cho đồ Việt dùng hàng ngày. Ai không có Chính Danh Dân Tộc chắc hẳn sẽ ngồi thưởng thức những món ăn độc đáo của một tiệm Thái Lan, quên rằng 28 năm trước đó, đại hoạ lớn nhất cho Người Việt đi tìm tự do trên biển cả chính là Người Thái, những Ngư Phủ dã thú đội lốt người, hoành hành trên vùng Biển Đông chờ những con thuyền ọp ẹp trên đó đầy vàng và phụ nữ trẻ đẹp. Biết bao nhiêu thanh niên đã bỏ xác dưới biển, biết bao trẻ em bị quăng xác xuống làm mồi cho cá, biết bao phụ nữ Việt Nam chịu nhục nhã dưới bàn tay sát nhân của Ngư Phủ Thái, và chính họ, sau khi tấm thân bị nhơ nhuốc vì bọn Ngư Phủ Hải Tặc, cũng bị ném xuống biển, hay chồng họ bị mã tấu chém ngang cổ vì ra tay bảo vệ vợ con. Ngày nay, Người Việt thản nhiên ngồi nuốt đồ ăn Thái, quên đi những cực hình bi thảm của Dân Tộc ta trong những ngày dài của 10 năm dân ta chập chờn giữa cảnh chín chết một sống ở Biển Đông mà Ngư Phủ Thái là thủ phạm. Hồi đó, chính dân Thái làm ngơ cho Ngư Phủ Thái hoành hành, chính quyền Thái nhắm mắt cho hải tặc hốt của và hiếp gái Việt, trả thù món nợ lịch sử gần một ngàn năm trước. Đến Sư Sãi Người Thái cũng lặng thinh, không cần biết đến thảm cảnh Biển Đông mà dân Thái, mặc dù tự xưng là con Phật, đòi nợ máu Dân Việt Tị Nạn.
Nếu suy rộng ra, Chính Danh Dân Tộc là một tổng hợp của lịch sử, của Văn Hoá, của các truyền thống, và của mọi sắc thái dân tộc tính. Vì không có Chính Danh Dân Tộc nên mới có Người Việt theo Cộng Sản và đổi Dân Tộc thành Đảng Tộc, coi Các-Mác là Tổ Tiên. Vì không có Chính Danh Dân Tộc nên mới có Chủ Thuyết Ngoại Lai du nhập vào xứ sở đổi con Người Việt Nam thành Mác-Xít, thành Hippi, thành Đợt Sống Mới, thành Hiện Sinh, thành Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế, thành Cao Bồi, thành Henry, John, Ronald, Mary, Jean, Elizabeth, thành đủ thứ lai căng, mất gốc, nhi nhô, ngoại nhập, nửa đực nửa cái không ra thể thống gì. Có người mất Chính Danh Dân Tộc còn cố biện bạch và vin vào Tôn Giáo để bào chữa. Một ông ở Cali vừa tạ thế, con cái đăng cáo phó cho cha mới khuất là Nguyễn ..., “Thánh danh Robert”. Xin Quý Vị coi lại thánh kinh xem có vị thánh nào tên “Robert” không. Đây chỉ là một trường hợp điển hình của những Bộ Óc Vọng Ngoại đi ngược lại nguyên tắc Chính Danh Dân Tộc nhan nhản trong Tập Thể Người Việt ở Hải Ngoại. Nhiều vị phụ huynh đánh mất Chính Danh Dân Tộc, hồ hởi đặt tên con theo tiếng Mỹ, cho con cái nói tiếng Anh trong nhà để mau trở thành Mỹ. Đến khi con cái hư hỏng, đối xử tệ bạc với cha mẹ thì mới biết rằng nó sống theo lối Mỹ và lúc đó thì đã muộn.
C. Kim Chỉ Nam Chính Danh:
Đã ba thập niên qua rồi, lịch sử thế giới đã chứng tỏ được sự thật và những huyền thoại về Cuộc Chiến Việt Nam, một cuộc chiến chính đáng và hợp đạo đức con người, trừ khía cạnh của Người Cộng Sản. Người Việt Tị Nạn, nhất là những người đã từng nếm mùi trong các trại khổ sai sau tháng 4/1975 đã mang được tiếng nói Chính Nghĩa. Chính Danh trải khắp Bốn Biển, Năm Châu để thức tỉnh lương tâm thế giới. Ngay cả một số Nhà Văn, Nhà Báo, Học Giả Ngoại Quốc trước đây từng ủng hộ Hà Nội cũng đã sám hối, tiếp tay tuyên dương thế đứng Chính Danh của Người Việt Hải Ngoại. Nhưng bên trong tập thể chúng ta, một số người vì u tối, vì quyền lợi, vì tình cảm, đã cố tình hay vô ý thức đánh mất Chính Danh, từ Chính Danh Cá Nhân, Chính Danh Tập Thể, tới Chính Danh Văn Hoá, Chính Danh Chính Trị, và Chính Nghĩa của Đại Đa Số Người Việt.
Chính Danh, học thuyết từng chứa đầy trong hàng ngàn cuốn sách, hàng triệu bài viết, từng chi phối hàng ngũ Chính Trị gia từ thời nước Tàu lập quốc và qua những thời đại mới sau này, không thể được diễn tả đầy đủ trong mấy trang báo nhỏ. Dù sao, nó vẫn là Kim Chỉ Nam cho mọi cuộc tranh đấu, Khuôn Vàng Thước Ngọc cho mọi bàn tay cầm vận nước hay vận mệnh một Tập Thể, một Phong Trào Tranh Đấu Văn Hoá, Chính Trị như cuộc tranh đấu của Người Việt Hải Ngoại trong ván bài của lịch sử hiện nay. Niềm đau mất nước sau cuộc chiến vẫn là niềm đau không nguôi chung của hai triệu người bỏ xứ ra đi và hơn 80 triệu dân còn mất tự do dưới chế độ mọi rợ của những người cầm quyền xuất xứ từ hang Pắc Bó. Niềm đau ấy theo thời gian vẫn tăng cường độ cho một người còn nuôi Chính Danh và chung thuỷ với dân tộc tính, nhưng sẽ phai lạt dần với những người đã đánh mất Chính Danh dù Cá Nhân hay Tập Thể. Lớp người này tuy mang hình dáng Con Người, nhưng cuộc sống của họ là lằn da con Cắc Kè ở bờ dậu, thấy lợi là Đổi Màu.
Giữa cảnh xuân sắp sang lần thứ 34 ở quê người, tôi chỉ xin gửi tới Quý Vị lá thư Chính Danh để cùng suy ngẫm, không phải để mua vui, mà để chúng ta Cùng Sám Hối với Tổ Tiên, với Đất Nước, nhất là đối với những Người Đã Nằm Xuống vì Chính Nghĩa và Chính Danh. Dù là Anh Lính không cấp bậc, anh Dân Vệ mộc mạc ở xóm làng, hay một Người Dân không tên tuổi, những Người Nằm Xuống vì Chính Danh vẫn là những Người Hùng, những Kẻ Sĩ thực sự đóng được vai trò Kẻ Sĩ của Luân Lý, của Đạo Đức, của Chủ Nghĩa Quốc Gia, của Chính Nghĩa và Chính Danh. Chính Danh đi đôi với Chính Nghĩa, và chỉ khi nào chúng ta giữ được Chính Danh, chúng ta mới nắm trong tay chìa khoá để chiến thắng Cộng Sản.
No comments:
Post a Comment