Nhà Báo Việt Thường

Nhà Báo Việt Thường

Tìm kiếm bài Blog than huu cua Nha Bao Việt Thường xin gõ chữ vào đây

Thursday, December 31, 2009

Trần lam Sơn- Gần miệng lỗ

Gần miệng lỗ.

( Năm cùng tháng tận)

Đã giữa tháng 12- thường thì những ngày cuối năm mọi người đều nao nức, hân hoan chào đón Giáng Sinh (Thiên Chúa xuống thế làm người trong một hang đá lạnh lẽo, khó nghèo…) và cũng có những người buồn bã, sầu muộn để tiễn biệt một năm sắp sửa trôi về quá khứ. Riệng cá nhân tôi- buồn lắm- chán lắm khi nghĩ đến thân phận của dân tộc và đất nước.Để chia sẻ với những não nề của chính mình, tôi ngồi ôn lại những chuyện vui buồn( thường là chuyện buồn) đã qua.

* Chuyện lão già sắp xuống lỗ Fidel Castro:

- Lúc cảm thấy mình sắp sửa phải từ bỏ quyền lực vì tuổi già hơn nữa lúc mà nền kinh tế Cuba tuột giốc và đang bên lề vực thẳm (chỉ còn đem xì gà ra bán nử giá) ông ta sắp xếp một chuyến thăm Đức Giáo Hoàng nhưng thực ra tên cáo già này cũng chẳng tốt lành gì ngòai việc nhờ tiếng nói của Tòa Thánh kêu gọi thế giới và nhất là Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận. Sau đó không bao lâu, Fidel Castro, lâm bệnh ngặt nghèo, tính mạng bị đe dọa vì già yếu và bệnh họan…cuối cùng phải trao quyền cho Raul Castro và rút lui vào bóng tối, chờ ngày đi thăm Kark Marx, Lê nin, Mao trạch Đông… (điều này chắc chắn ông trời sẽ rộng lượng vui lòng chấp nhận lời yêu cầu cuối cùng ấy thôi!)

- Sang cái chuyện ông chủ tịch Nguyễn minh Triết (đem cái mặt ngỗng ỉa” như một người đã ví von nhận xét”) xin thăm gặp ĐGH. Tôi không còn nhớ cái bộ mặt của tên Nguyễn tấn Dũng những năm trước giống ai khi gặp ĐGH, nhưng lần này tôi cố nhìn thật kỹ cái bộ mặt của ông chủ tịch nhà mình (quả thật tôi không biết lúc ngỗng ỉa cái bộ mặt của ngỗng ra sao?). Theo tôi, khuôn mặt của ông chủ tịch nhăn nhó, ngượng nghịu, khó ưa như thằng chí phèo lên chứng phong ngứa khi ăn phải cá nhòng- một khuôn mặt dị ứng( lúng ta lúng túng vì biết chắc ĐGH sẽ hỏi tội về việc cướp đất đai của GH sau năm 1954 và chuyện xen vào việc bổ nhiệm chức sắc của Tòa Thánh…). Với khuôn mặt nhân từ của vị chủ chiên,tôi không biết ĐGH có biết tướng số về nhận diện mạo hay không, chứ lật phía sau đít của ct Nguyễn minh Triết ra chắc chắn Ngài sẽ thấy một cái đuôi quỷ sứ Satan thật dài với chùm lông cuối được kết thành đuôi sam( ông ta mới gởi thằng cháu nội đi học trường Singapore tập nói và tập cúi đầu theo kiểu triều cống xa xưa…) Nếu chiếu theo cái huông của lão già Fidel Castro thì cả hai ông chủ tịch cũng như ông thủ tướng VGCS cũng nên chuẩn bị cho chính mình là vừa vì đã đến ngày “ gần miệng lỗ” rồi- hoặc nếu không cũng bị dân đánh vỡ mặt như thủ tướng Đức vừa qua.Liệu hồn đấy, hai ông thần nước mặn!

* Đến chuyện cái lăng của cái ông việt gian tự nguyện đổi từ họ Nguyễn sang họ Hồ cho cùng họ với Hồ cẩm Đào. Tôi không hiểu có người ngọai quốc hay ông, bà việt kiều vớ vẩn nào có hứng thú xem lăng bác Việt- gian nữa hay không?(( nếu có ai thì những người này quả đã bị tâm thần nặng( thuộc lọai hết thuốc chữa)- mà cũng chẳng cần phải chữa nữa mà đem nhốt cho tiện việc))Chứ người trong nước ai ngu dại gì đi thăm cái tượng sáp chết trôi ấy nữa. Bây giờ, ĐCSVN có những thăng trầm- thăng chẳng được bao nhiêu chứ trầm mình, cúi đầu, van lạy hơi nhiều nên nhiều khi bí quá chúng đổ tội cho nhau, nào là nghĩ đến chuyện đổi tên đảng trong tương lai, chuyện chia nội bộ( ngọai bộ) đảng ra làm hai- đúng hướng, chệch hướng như cái ông rất thổ tả Việt Tân( chuyên nhập nhằng và làm chuyện ruồi bu…ngựa)- nào là chửi rủa lẫn nhau vì không theo di chúc của bác( nếu theo lời bác chắc tòan dân chết cả nút). Để rồi xem cái lăng thổ tả của ông này sẽ bị lật úp làm cho chỗ tiểu tiện công cộng cho mọi người đến xả xui. Xin lỗi, lúc ấy tôi xin xếp hàng đứng đầu tiên để thăm bác vì đã có ý ngóng chờ từ lâu lắm rồi!

- Còn cái ông mả mẹ- Nguyễn tấn Dũng- bầy đặt xây nhà họ, chắc chắn từ đây cho đến năm 2011, tòan dân miền nam sẽ về lật úp cái nhà họ của tên đại việt gian làm hố xí cho mọi người xả sú bắp khi rất cần gỉai quyết. Điều tốt nhất là xuống ngôi và biến đi trước giờ lâm tử…

* Đến lựơt ông đại tướng cầm quần Võ nguyên Giáp.

- Năm nay ông tướng này đã hơn 90- chỉ đủ hơi nói 2 chữ Bô-Xít rất ngập ngừng và chỉ còn một ít sức lết đến miệng lỗ. Tôi không biết những ai có lòng với đất nước còn ngóng chờ cái ông lão này cho cam- chứ nhìn hình ảnh ông tổng thống mát dây thuộc một vùng nam mỹ nào đó đến tận VN trao cho ông tướng nhà mình một thanh kiếm thần làm kỷ niệm. Nhìn hình ảnh còm cõi của ông tướng (cái ông TT nào đó cũng ác ý trao thanh kiếm quá to và nặng so với khổ người của ông tướng về chiều họ Võ) nhận thanh kiếm mà tôi rớt nước mắt. Tôi không biết cái hào quang của ông tướng này ra sao mà nổi danh trận ĐBP (dùng chiến thuật thí quân thì có mẹ gì là giỏi đâu- đứa dốt nhất trong quân đội cũng làm được cơ mà), thật ra ông chỉ biết khom người rúc vào nách ông tướng tàu Lã quí Ba gì đó mà xưng oai, xưng hùng… Theo tôi, là một tướng hùng, nổi danh như Võ nguyên Giáp khi bị hạ bệ xuống làm thứ trưởng bộ hộ sinh gì đó theo tôi, leo lên cành đa đầu làng treo cổ tự vẫn sướng hơn, phải không? Thế mà…giờ đây còn có lắm kẻ tin vào ông tướng rất hèn này( hèn hơn lão già lẩm cẩm Tô Hải- cái ông Ls. Họ Đinh lẩn thẩn không biết ăn nhằm cái gì mà cũng tin lấy tin để lão xin tự nhận là hèn- nếu biết hèn lúc còn trẻ thì đỡ bắt mọi người nghe rất nhiều bản nhạc bốc thơm đảng- thối thật!).

Có lẽ ông lão tướng họ Võ đang chờ đi một lượt với cụ Castro cho hợp đôi.

** Tiên đóan: Fidel Castro chết CS Cuba sẽ biết mất trong ngày gần đây.

Đai tướng Bô xít Võ nguyên Giáp xuống lỗ, VN sẽ bước qua dân chủ và phú cường.

* Đại hội việt kiều tháng 11/2009.

Cái ĐH này trống kèn, còi hụ ra sao nhưng tôi phải bịt mũi vì 2 câu phát biểu nặng mùi:

- Rất nặng mùi luồn cúi của ông Nguyễn hữu Liêm nào đó( tôi chưa gặp ông này bao giờ nhưng mẫu mã, bản mặt tối đa của ông này cũng chỉ bằng khuôn mặt tạm gọi là ngỗng ỉa:” Nơi giữa đại hội việt kiều:một nỗi bình an. Bình an và an bình là phải vì có cả ngàn công an với AK47, AK50 gác cho mấy ông tha hồ vỗ tay( không biết chán và biết mỏi) thì chuyện bình bình an an thì có mẹ gì phải đáng nói. Đề nghị ông NHL thử ra ngay chỗ dân oan xuống đường xem ông có phải mang nón sắt không nhé!Đời tôi ghét nhất những kẻ nịnh thần, cho nên đành phải xin lỗi cho tôi lên một tiếng chửi vậy: Tiên sư nó. Nghe chỉ muốn VÃI (chữ mựơn của Vương văn Quang ).

- Xấu hổ, rất xấu hổ về ông Nguyễn minh Triết của tôi, khi ông to mồm phát biểu:”Bây giờ chúng ta mới có dịp cất cao tiếng nói…”Chứ trước giờ ông bị câm à mà không dám cất tiếng- hay kẻ bất tài như ông dựa dẫm vào những đầu trâu mặt ngựa- vinh qui áo mão về làng khi hơn 90% dân tộc VN đang còn bị đọa đày.Mặt ông chủ tịch vênh váo, khóac lác, to mồm, huyênh hoang trả bài theo lệnh. Sống sượng thật! Nghe mà muốn”VÃI” thật muốn vãi đấy các cụ VK ạ!

- Còn cái ông mang cái bằng cấp thật to- đó là ông tiến sĩ Vũ quang Vịêt- ông đã vận dụng tất cả khả năng, sức lực để chứng minh cho được là Hòang sa- Trường sa là của VN.Thưa ông trước nắm1958 thì đúng( nếu ông sinh ra và lớn lên, khoa bảng trước 1958 thì không phải chứng minh cũng đúng như 2 với 2 là 4).Tôi lấy làm lạ, bằng cấp đến tiến sĩ sao ông không tìm hiểu để biết, thằng việt gian Phạm văn Đồng theo lệnh của tên gian tặc bán nước Hồ chí Minh dâng TS và HS cho bố tàu từ năm 1958 rồi. Cho đến giờ này ông vẫn cố tình nhắm mắt, tin vào giáo điều của bè lũ việt gian bán nước ấy?Nếu tôi có đủ quyền lực sẽ yêu cầu đại học nào cấp bằng thu hồi lại cái tờ giấy bồi tiến sĩ cho tiện việc. Thưa ông Việt, hãy bỏ chữ ê đi mà về chăn vịt là vừa.

· Tôi viết bài “ chuyện từ đông sang tây” có đề cập đến lão sư ông mang tên Nhất Hạnh( lòng tôi thật và rất muốn đổi tên ông này sang tên Bất Hạnh cho đúng bản mặt và bản chất…). Xưa kia, miền nam hài hòa gởi ông đi tu luyện để mong trở thành chánh quả. Nghe nói ông nổi tiếng qua hai tác phẩm- bông hồng cài áo và hoa sen trong…lò lửa gì đó. Ông nói về mẹ rất hay vì thương mẹ, ông phải hy sinh bản thân theo nghiệp lớn: bỏ mẹ đi tu- rồi chun ngay vào làng mai( rùa), rỉa rúc trong ấy.Trong thời chiến tranh, ông vận áo cà sa rất dày- ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản- hung hăng bọ xít cùng với nhóm phản chiến Mỹ chống chiến tranh VN(nói đúng nghĩa là chống chính quyền miền nam đã cưu mang ông sinh ra và lớn lên). Ông biết bao lần vọng ngôn: vì vài tên du kích bắn chỉ thiên, máy bay Mỹ đã bỏ bom giết hơn 100 ngàn dân thuộc tỉnh Bến Tre- nào là ông thấy một chiếc xe bò chở mẹ già và vài phụ nữ VN, trực thăng Mỹ xà xuống và hốt hết những người đàn bà này đi…rồi ông bỏ lững câu nói.Vọng ngữ và theo chữ nghĩa miền nam là “điếm chảy”.Cũng làng mai ông lập tại VN, ông thâu nhận biết bao đệ tử- khi có biến bỏ đệ tử lăn lóc, bị trù dập, chỉ biết lấp ló trong mai rùa viết thư bâng quơ gởi cho tên bị dị ứng( ngỗng ỉa)Nguyễn minh Triết, hèn đến nỗi chỉ lập lững lấy tên Nguyễn Lang gì đó… Đám đệ tử bị thầy bỏ xất bất xang bang chạy qua ẩn cư tại chùa Phước Huệ- đến lúc đám đệ tử cũng bị đuổi khỏi chùa PH, thày chỉ ở rất xa viết thư tình cảm- thầy khuyên các con nên dũng cảm…- Mắc vãi…thật. Còn cái bà Faulkner, cộng thêm cái Võ văn Ái câm như hến…đã chết.

· Không phải Võ văn Ái và bà Faulkner đã gần kề miệng lỗ thật sao- nếu thế tôi khỏi bàn về cặp” trai tài gái sắc” này nữa.Mệt hơi!

Trời ngòai kia tuyết rơi tơi tả, trắng xóa cả mặt đường, nơi tôi ở thuộc một xứ mênh danh là sương mù- lạnh và buồn- nhưng tôi không cất nổi cánh tay để chuẩn bị vẫy chào từ biệt trước khi năm cũ sắp qua…chỉ vì những tên thổ tả tôi nêu trên dù, vẫn biết rằng bọn chúng đã…kề miệng lỗ. Nếu đã kề, hãy cùng tôi đem chôn chúng luôn nhé!

Một tối sắp sang đông 2009( sứ mù sương)

Trần lam Sơn

Wednesday, December 30, 2009

DLHTN-Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất- TẢN MẠN VỀ CHRISTMAS

TẢN MẠN VỀ CHRISTMAS

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Christmas năm nay lạnh hơn mọi năm. Nhiều người nói thế. Mà đúng thế thật. Ngay cả những ngày có nắng, ngoài trời vẫn rét căm căm. Có khi gió thổi rát mặt. Ra đường không trùm cái mũ lên đầu là không chịu được. Mấy ngày trước lễ, sáng dậy thấy tuyết rơi phủ trắng các ngọn núi chung quanh thành phố. Tôi đi lễ chiều cho xong bổn phận rồi chạy lẹ về nhà để cố vớt vát cái sự huyền diệu của đêm Chúa ra đời với những bản nhạc xưa còn tích đầy kỷ niệm, cùng một lúc đi chu du đây đó qua màn hình của cái máy computer. Ấy thế mà lại hay. Tôi có thể thưởng thức không khí ngày lễ của rất nhiều nơi trên thế giới, từ Đông sang Tây, từ Âu đến Á. Cái lạnh da diết của mùa Giáng Sinh năm nay đã là chuyện khác thường. Sự nô nức đón mừng lễ Giáng Sinh ở khắp nơi còn là điều khác thường hơn nữa. Chuyện khác thường rõ rệt nhất lại xẩy ra ở những nơi trước đây người ta chẳng biết Christmas hay Noel là gì. Lấy cái thí dụ thực tế là Hànội, Việtnam.

Dân Hànội nô nức đón mừng lễ Giáng Sinh không thua kém hay còn hơn cả Tây phương nữa. Ai không tin cứ rà trên các mạng lưới toàn cầu thì biết. Các cửa hàng trang trí thật đẹp mắt. Cây Christmas chưng đèn sáng trưng. Người ta tấp nập mua sắm. Các nhà hàng sang trọng bầy biện cực kỳ xa hoa. Các nhà thờ 30 năm về trước vắng như cái chùa Bà Đanh, nay thấy khởi sắc hơn nhiều. Ai dám bảo VGCS là vô thần, và VN không có tự do tôn giáo? Cách đây không lâu lắm, dân Hànội nhất định không biết lễ Giáng Sinh là gì. Tôi quả quyết như thế, bởi vì chính người Hànội cho biết như thế. Ngày Christmas 1980 tôi còn nằm trong trại tù K3 Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Trong giờ giải lao ngoài đồng, chúng tôi lân la nói chuyện với tên cán bộ bảo vệ và hỏi thăm hắn về các sinh hoạt bên ngoài, nhất là về ngày lễ Chúa Giáng Sinh ở miền Bắc. Tên lính ú ớ không hiểu lễ Giáng Sinh là lễ gì. Hắn chỉ biết trong năm có các ngày tết Nguyên Đán, ngày cách mạng 19-8, ngày Độc Lập 2-9, ngày Lao Động 1-5 và ngày Mừng Công khác nhau của từng đơn vị sản xuất. Hắn còn tỏ vẻ thương hại chúng tôi và lên mặt dậy dỗ

: “Bây giờ mà các anh còn tin vào Chúa nữa à, sao mà lạc hậu thế.”

Hắn cho biết, hôm nay (25-12-1980) ngay ở thủ đô Hànội nơi gia đình hắn ở, mọi người đều lao động bình thường. Công nhân đến nhà máy. Nhân viên đến sở làm. Học sinh đến trường học v.v. Tóm lại là một ngày như mọi ngày.

Không biết sự trở quẻ trong lãnh vực tôn giáo của bọn vô thần đáng vui hay đáng buồn. Niềm vui được tự do tôn giáo của người dân thì mới nhìn thấy được ở cái bên ngoài, còn sợi giây thắt cổ bên trong phải nhìn kỹ mới thấy được. Chẳng thế mà giáo dân cứ phải nổi lên tranh đấu hoài, hết nơi này đến nơi khác, mà cũng chẳng được cái gì. Vẻ tưng bừng của ngày Giáng Sinh tại cái xứ sở công sản này hoàn toàn không mang tinh thần tôn giáo, mà chỉ là hình thức thương mại. Vì thế khi CS cho phép người dân đón mừng lễ Giáng Sinh không có nghĩa là chúng nhìn nhận tín ngưỡng như một nhân quyền. Trái lại, chúng sử dung Chúa như một thương hiệu đắt khách để làm ăn kiếm tiền. Chỉ có thế thôi, và đấy không phải là điều đáng buồn lắm sao?

Bài thánh ca quan trọng nhất trong ngày lễ Giáng Sinh là lời cầu chúc của các Thiên Thần cho nhân loại: Gloria in excelsis Deo, et in terra Pax hominibus bonae voluntatis (vinh danh Chúa trên trời, và bằng an dưới thế cho con người có lòng ngay chính). Lời cầu chúc trên bằng tiếng latinh, nhưng người Mỹ đã dịch ăn bớt, do đó ý nghĩa không được chính xác. Tiếng Mỹ dịch là: Glory to God in the highest, and peace to his people on earth (vinh danh Chúa trên trời, và bằng an cho dân của Chúa trên trái đất). Dịch một cách phiến diện như thế có lẽ không cắt nghĩa được đoạn Kinh Thánh sau đây. Chúa giảng công khai cho dân chúng thế này:

“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau, cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng (Lc 12, 51-53).”

Luke 12:51-53 (King James Version)

51Suppose ye that I am come to give peace on earth? I tell you, Nay; but rather division:

52For from henceforth there shall be five in one house divided, three against two, and two against three.

53The father shall be divided against the son, and the son against the father; the mother against the daughter, and the daughter against the mother; the mother in law against her daughter in law, and the daughter in law against her mother in law.


Từ tiếng latinh, ta thấy các Thiên Thần chúc bình an, nhưng chỉ bình an cho những người có lòng ngay chính (hominibus bonae voluntatis) mà không phải cho bất cứ ai. Điều quan trọng là chỉ có những người có tâm thiện mới được hưởng sự bình an. Đó cũng là tâm lý tự nhiên thôi. Những con người khư khư ôm tham, sân si trong lòng chẳng bao giờ cảm thấy mình được bình an, chứ chưa nói đến được hưởng sự an bình thật. Những người luôn vơ vét làm giầu bất chính chắc chắn không bao giờ thư thái trong lòng. Những kẻ chỉ mải mê tranh dành quyền lợi càng không thể được bình an trong tâm hồn. Như thế thì lời Thiên Thần chúc quả có ý nghĩa, và Chúa nói cũng không sai. Bản tính Thiên Chúa trái nghịch với tham, sân, si của người đời, nên Ngài là nguyên nhân của xung đột, hay nói cách khác, Ngài đem đến sự chia rẽ, và sự an bình của trời cao như Thiên Thần cầu chúc chỉ có tác dụng đối với những con người ngay thẳng.

See full size image

Israel



Cái thảm họa của nhân loại thiếu công chính thể hiện rõ rệt nơi Chúa sinh ra là sự xung đột giữa Israel và Palestine. Hiện nay sự xung đột đó còn đang có cơ nổ bùng giữa khối người Hồi Giáo quá khích với các quốc gia theo Thiên Chúa Giáo phương Tây. Những việc Thiên Chúa an bài theo thượng trí của Ngài con người không thể hiểu được. Nhưng cứ theo cách suy nghĩ thiển cận của con người thì việc Chúa chọn sinh ra làm người Do Thái quả là một sai lầm lớn. Thứ nhất, giả như Chúa sinh ra làm một người dân tộc nào đó, ở Phi Châu chẳng hạn, thì có lẽ đã tránh được tình trạng phân hóa chủng tộc tại phần đất Trung Đông vốn dĩ đã phân hóa về vấn đề chủng tộc xưa kia, và càng ngày sự phân hóa càng trầm trọng thêm kể từ ngày Chúa ra đời. Giả sử nếu Chúa là người Congo chẳng hạn, thì người Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo không có lý do gì để sinh chuyện với nhau. Thứ hai, chủng tộc Do Thái có cái gì hay ho đâu, ngoại trừ chỉ số IQ của họ cao hơn so với nhiều sắc dân khác. Lịch sử Do Thái cho thấy ngay từ thời lập quốc, dân tộc này là một giống dân chẳng ra gì.

- Hèn nhát: ngay như chính ông tổ Do Thái, thà nói láo chịu mất vợ để tự cứu mạng còn hơn là bảo vệ vợ mình.

- Vô luân: loạn luân giữa cha ruột và con gái.

- Không có tình cảm gia đình: trong nhà ruột thịt mưu giết nhau. Anh em bán nhau cho bọn buôn nô lệ nước ngoài v.v.

- Phản bội: Moise cứu dân khỏi làm nô lệ Ai Cập, nhưng dân vẫn nổi lên chống lại ông.

- Tệ hơn hết là không có tinh thần dân tộc: Khi Chúa bị bắt và bị nộp cho tổng trấn Pilate. Trước nghị trường, dân chúng đòi giết Chúa. Pilate nói với dân:

“Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua (Chúa Giêsu) của các người sao?”

Họ đáp:

“Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Caesar.” (Caezar là hoàng đế La Mã, quốc gia thống trị Do Thái vào lúc đó, ghi chú của người viết).

Chỉ một câu trả lời như trên với viên toàn quyền đại diện quốc gia xâm lược đủ nói lên tinh thần nô lệ của người Do Thái. Họ thà chấp nhân thân phận nô lệ hơn là một cách nào đó phô bầy ý chí độc lập tự chủ của mình.

Khi mất nước và bị phân tán, người Do Thái đi đến đâu cũng chuyên lo vơ vét làm giầu và gây họa cho dân địa phương đến đó. Nhìn vào những chuyện chung quanh đây thôi, chúng ta thấy rõ. Chẳng hạn hai tập đoàn tư bản ngành ngân hàng và ngành truyền thông Mỹ gốc Do Thái, họ lũng đoạn nước Mỹ đến cỡ nào.

http://i243.photobucket.com/albums/ff200/baseball_crank/Blog/21046-004-85FAD0A4.jpg

Henry Kissinger/ Le Duc Tho

File:Kissinger, Ford and Mao, 1975 A7912.jpg

Kissinger và Mao

- Chuyện ngày trước: Nếu không có tên Do Thái Kissinger đẻ ra chính sách tháo chạy tại khỏi Đông Đương để bắt tay với Trung Cộng, và nếu bọn truyền thông bất lương Mỹ gốc Do Thái không cổ võ và thổi phong trào phản chiến lên, thì chúng ta đâu có đến nỗi phải trở thành người dân bị mất nước?

- Chuyện hiện nay: Sự việc không thể chối cãi là nếu bọn truyền thông Do Thái bất lương không ra mặt thiên vị và thổi Obama lên quá đáng thì liệu ông ta có khả năng vào nổi tòa Bạch Ốc và ngồi lên cái ghế tổng thống không? Bọn tư bản Do Thái nhất định đưa Obama lên làm tổng thống để làm gì? Có thể đây là đòn “Hồi mã thương” (giả bộ thua chạy rồi quay dáo lại giết địch thủ). Ở đây, tôi không phê phán các chính sách của ông Obama, tốt hay xấu, thành công hay thất bại, cũng không kỳ thị ông là người da đen, mà chỉ nêu lên điểm nghi ngờ về thân thế của ông. Ông Obama có đủ điều kiện luật định để trở thành Tổng thống của nước Mỹ không, đó là điều dư luận Mỹ đang đặt ra. Hiến Pháp Mỹ bắt buộc làm Tổng Thống phải là người đương nhiên là công dân Mỹ lúc sinh ra (natural born citizen). Để chứng minh là natural born citizen, ông Obama phải có tờ giấy khai sanh (long form birth certificate). Cho đến nay đã có trên 9 triệu người Mỹ nạp thỉnh nguyên thư (gọi là Pink Slip) lên Quốc Hội để đòi ông Obama xuất trình giấy khai sanh của ông, nhưng Tòa Bạch Ốc lươn lẹo, chỉ xuất trình giấy chứng nhận khai sanh (Certification of birth) mà thôi. Tại sao thì đấy là câu hỏi rất nhiều người đặt ra mà không thấy ai trả lời. Bọn truyền thông gốc Do Thái im thin thít về chuyện này. Thử tượng tượng thế này, nếu một ngày nào đó người ta khám phá ra ông Obama không phải là một người Mỹ natural born citizen, thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Có phải tất cả mọi đạo luật, sắc lệnh, hay gì gì đó một ông Tổng Thống illegal ký đều không có giá trị và vô hiệu lực không? Chuyện này nếu là thật thì nước Mỹ sẽ đi về đâu? Nếu ông Obama là một natural born citizen thì chuyện không có gì đáng nói. Nhưng nếu không thì ai là người mang trách nhiệm nhiều nhất đưa ông Obama và Tòa Bạch Ốc, nếu không phải là bọn truyền thông bất lương tả phái Do Thái?

Một dân tộc đáng ghê tởm như thế mà được Chúa chọn làm dân riêng của Ngài. Có mà Trời hiểu. Nước Do Thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới hơn hai ngàn năm trăm năm rồi, thế mà các nước phương Tây còn xúm nhau lại phục quốc cho nó. Đây lại là một chuyện lạ nữa. Biết bao nhiêu quốc gia đã bị xóa tên trên bản đồ: Chiêm Thành, Chân Lạp, Tấn, Sở, Tề, Yên v.v. Tại sao thế giới không phục quốc cho họ? Người ta bảo đó là Chúa muốn, sấm ký của các Tiên Tri gần 26 thế kỷ trước đã nói như thế. Hai tác giả Dr John Ankerberg và Dr Jimmy DeYoung trong cuốn Israel Under Fire đã trích dẫn lời tiên tri như sau: “God told the prophet Ezekiel in 570 B.C. what He will do in the future (Ezekiel 37: 21-22 NASB):

1. He “will take the sons of Israel from among the nations where they have gone.”

2. He “will gather them from every side and bring them into their own land.”

3. He “ will make them one nation in the land.”

Và các ông khẳng định: “twenty five hundred years later, there can be no doubt that these three prophecies have come true in our generation.

(tạm dịch: Năm 570 trước công nguyên, Chúa nói với tiên tri Ezekiel về những điều Ngài sẽ làm trong tương lai:

1. Ngài sẽ đưa về các con cái Israel từ những dân tộc mà chúng đã đến.

2. Ngài sẽ tập hợp chúng lại từ mọi phía và đem chúng về đất riêng của chúng.

3. Ngài sẽ biến chúng thành một dân tộc trên mảnh đất này.

2500 năm sau, không còn hồ nghi được là 3 lời tiên tri trên nay đã thành hiện thực trong đời chúng ta.)

Hai tác giả cũng còn nêu lời tiên tri khác nữa để dẫn chứng: “I will bring them back to this place ( Jerusalem ) and let them live in safety” (Jeremiah 32: 37) (Ta sẽ đem chúng về Jerusalem để cho chúng được sống trong an bình.)

Những bằng chứng về sự phục quốc Israel mà hai tác giả John và Jimmy trích dẫn đều là lời của các tiên tri từ trong Cựu Ước. Lời tiên tri Do Thái cũng đại loại giống như Sấm Trạng Trình của Việt Nam. Người VN tin sấm Trạng Trình và người Do Thái tin sách tiên tri của họ. Biết tường tận sự việc theo như lời sấm nói trước khi nó xẩy ra lại là chuyện khác, khó lắm. Dân Do Thái bị lưu đầy nhiều lần và cũng đã trở về gầy dựng lại đất nước nhiều lần trước đây, một lần từ Ai Cập, và một lần nữa từ Babylon (thành phố cựu thủ đô của xứ Babylonia, khoảng 55 miles S. Baghdad hiện nay). Vấn đề đặt ra là một dân tộc mà tính tình thì tham lam và phản bội, xử sự lại nham hiểm và tàn nhẫn, trước một đối thủ nuôi đầy thù hận và sắt máu vây quanh, liệu đất nước Do Thái có thể sống an bình được sau khi tái lập như lời tiên tri cho biết không? Câu trả lời có lẽ ở ngay trong biến cố Giáng Sinh: nếu mọi người đều có cái tâm ngay chính thì an bình sẽ được như lời Thiên Thần chúc. Trái lại, nếu ai nấy cứ giữ mãi cái tâm man trá thì Chúa đến, Ngài mang đến sự chia rẽ và thanh gươm chứ không phải sự bình an, hoan lạc.

Christmas 2009

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

DLHTN-Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất-ĐỂ ĐƯỢC SỰ THẬT GIẢI THOÁT






ĐỂ ĐƯỢC SỰ THẬT GIẢI THOÁT

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Vấn đề “đấu đá” bằng keyboard giữa nhà văn Kiêm Ái (KA) Lê Văn Ấn và chúng tôi, Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất, xẩy ra khá lâu rồi và những tưởng đã chấm dứt. Không ngờ đến bây giờ vẫn còn dội lại cú aftermath dữ dội từ nhà văn chủ báo Trần Phong Vũ (TPV). Ngay sau khi tôi nhận được bài phản biện của nhà văn TPV trực tiếp gởi cho tôi, tôi còn nhận được bản Forward từ nhà văn Phạm Quang Trình, từ nhà văn KA cùng với lời giới thiệu. Và đặc biệt nhà báo Nam Nhân có gởi cho tôi một lá thư ngỏ khuyên tôi không nên trả lời các ông TPV và KA nữa.

Trước hết, tôi xin thành thực cám ơn anh Phạm Quang Trình đã quan tâm đến vấn đề và gởi bài phản biện của ông TPV cho tôi đọc. Sau nữa tôi cũng xin chân thành cám ơn anh Nam Nhân đã dành cho tôi một lời khuyên can chân tình, và xin đừng cho rằng tôi đang trả lời các ông TPV và KA. Không, tôi vẫn trân trọng lời khuyên quí báu của anh. Bài viết này mục đích là để cầu mong được sự thật giải thoát cho mà thôi. Người cầu mong được sự thật giải thoát trước hết là tôi, Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất, bởi vì trong bài phản biện của ông TPV chứa đựng nhiều điều dối trá và ngụy biện. Mấy dòng giới thiệu của nhà văn KA cũng hàm chứa kết luận tôi đuối lý nên chạy làng, nghĩa là không đúng với sự thật. Chỉ có sự thật mới giải thoát được anh em, đó là tôn chỉ viết văn, làm báo của ông TPV. Ông TPV muốn áp đặt sự thật của riêng ông trên người khác là điều trái với tôn chỉ làm báo của ông. Tôi xin nương theo đó mà làm theo thôi.

Câu hỏi đặt ra là sự thật trong bài phản biện của ông TPV là gì, và tôi xin được trả lời. Nhưng để tránh dài dòng làm phiền quí bạn đọc, tôi xin được miễn nhắc lại những sự việc cũng như các bài viết trước đây, mà xin đi thẳng vào từng điểm trong bài phản biện của ông TPV mà sự thật cần phải được làm sáng tỏ.


1. Vấn đề ông Thằng Hèn Tô Hải

(Trích phản biện của ông TPV): “… đề cập việc DĐGD đăng bài minh xác của bà Tô Ánh Tuyết về nguồn tin nói rằng anh ruột bà là nhạc sĩ Tô Hải, tác giả Hồi Ký của Một Thằng Hèn, đã có hành vi “đập phá” phần mộ thân phụ ông, trong khi không đăng bài của anh! Sau đây là câu trả lời của tôi:

1/ Xin nói thật và nói thẳng: tôi cũng như tòa soạn DĐGD không hề nhận được bài “Bức Chân Dung Tự Họa” của anh.

Đấy là sự thật 100%. Nếu anh hoài nghi là quyền của anh.

2/ Có điều tôi cần nói rõ để anh hay: tôi là người cùng nhà văn Uyên Thao và một số văn hữu chủ trương tủ sách Tiếng Quê Hương. Vì thế khi chọn Hồi Ký của Một Thằng Hèn của nhạc sĩ Tô Hải để giới thiệu với độc giả hải ngoại, chúng tôi đánh giả cao nội dung tác phẩm, và dĩ nhiên cũng đánh giá cao nhân cách, lập trường và thái độ của tác giả. Cũng vì thế khi nhận được lá thư của bà Tô Ánh Tuyết, BBT/DĐGD đã quyết định đăng trên số 92 phát hành tháng 02-09. Lá thư cũng được tác giả phổ biến rộng rãi trên ĐCV Online và nhiều điễn đàn khác.

Cho nên tôi xin nói rõ, không quanh co, úp mở rằng: giả dụ hồi ấy nhận được bài viết của anh gửi DĐGD tôi cũng sẽ không đăng, chỉ khác một điều là chúng tôi sẽ thẳng thắn trả lời anh ngay trên mặt báo về quyết định chẳng đặng đừng này. Tại sao? Xin trả lời: cũng như nhóm chủ trương tủ sách TQH, tôi tin ở nhân cách của tác giả cuốn Hồi Ký, từ đấy cũng chia sẻ những luận điểm trong lá thư của bà Tô Ánh Tuyết.

Sau khi thận trọng tìm hiểu thêm, chúng tôi nghĩ những gì bà Tuyết trình bày trong lá thư của bà không phải là “nửa sự thật” mà là “những sự thật toàn vẹn”.

Anh và những vị không đồng ý với những suy nghĩ và cách đánh giá của chúng tôi là quyền riêng của mỗi người. Đấy cũng là lý do chúng tôi đã quyết định không tranh biện với bất cứ ai có quan điểm khác. Dĩ nhiên những gì tôi đang viết cho anh hôm nay là một ngoại lệ.” (hết trích).

Dưới đây là những sự thật trong trích đoạn trên cần được làm sáng tỏ.

a/ Ông TPV khẳng định rằng tòa soạn DĐGD không nhận được email tôi gởi yêu cầu đăng lá thư trả lời bà Tô Ánh Tuyết. Vấn đề này tôi xin nhờ đến ông Phạm Tất Hanh, thư ký tòa soạn DĐGD làm chứng. Ông Hanh là người có tiếng đạo đức, có dám thề làm chứng là tòa soạn nguyệt san DĐGD không nhận được email của tôi không? Tôi sẽ tin lời ông nếu ông dám thề. Bằng không, nếu tôi trách Server làm việc không nên thân thì đó là chuyện bất công. Việc chuyển email nếu có gặp trực trặc thì bao giờ Server cũng báo cho người gởi biết. Tôi không nhận được thông báo gì. Đây là sự thật. Chỉ có những ai không từng biết sử dụng computer mới tin được lời phủ nhận của ông TPV là sự thật. Nhưng thôi đấy là chuyện nhỏ.

b/ Ông TPV đánh giá cao ông Tô Hải (TH) về nhân cách, lập trường, và thái độ. Như thế ngược lại có nghĩa là ông cũng mặc nhiên đánh giá những người phê phán ông TH như tôi là thấp kém về nhân cách, lập trường, và thái độ. Ông thằng hèn TH có nhân cách, lập trường và thái độ vì đã viết sách cho ông TPV in và bán.

Nhưng khi lấy bài viết của tôi đăng báo để bán thì ông TPV lại kể tôi là kẻ thiếu nhân cách, lập trường, và thái độ. Đây là sự thật.

Một thằng lính già 10 năm quân ngũ như kẻ hèn này, đi tù 7 năm, bây giờ về già vẫn còn giang thân chiến đấu chống cộng lại bị ông TPV đánh giá còn thua cả một tên CS suốt đời phục vụ đảng làm hại đất nước và dân tộc, lúc gần xuống lỗ còn thả dê bậỵ, sợ bị khai trừ, như chó cùng đường mới quay lại cắn chủ. Đây là sự thật.

Mà thua về tiền bạc, thua sự giầu sang, hay thua cái gì cũng được đi. Đàng này lại thua về nhân cách, về lập trường và về thái độ (?) mới là một sỉ nhục to lớn. Tôi không dám tự phụ về nhân cách của mình, để xin để quí bạn đọc tìm hiểu và nhận định. Nhưng về điểm lập trường chống cộng, về thái độ xử thế, thằng lính già như tôi bị đánh gía còn thua một tên CS khi sắp xuống lỗ mới chơi trò phản tỉnh cuội thì cảm thấy nhục nhã vô cùng. Một hiện tượng thông thường đang xẩy ra chung quanh chúng ta là những tên CS suốt đời giết dân hại nước, chỉ cần hô lên vài tiếng chửi đảng vô thưởng vô phạt thì được vinh danh là nhà ái quốc, là chiến sĩ dân chủ, chết còn được phân ưu gởi đến tận nhà, được quì lậy xì xụp trước di ảnh v.v. Trong khi những người cống hiến cả tuổi thanh xuân cho Tổ Quốc thì lại bị coi là cực đoan, quá khích, đại đa số chết đi trong âm thầm lặng lẽ. Những kẻ đang thờ giặc, quay lưng lại với người lính đó chính là những kẻ xưa kia được người lính sống chết bảo vệ.

đảng Việt Tân ca ngợi Nguyễn Hộ là nhà aí quốc

Hoàng Duy Hùng tôn xung Hoàng Minh Chính là chiến sĩ dân chủ


Do sự việc ông TPV đề cao tên VGCS thằng hèn TH là con người có nhân cách, có lập trường, và có thái độ, cùng với những sự kiện như trung ương đảng Việt Tân ca ngợi Nguyễn Hộ là nhà aí quốc, Hoàng Duy Hùng tôn xung Hoàng Minh Chính là chiến sĩ dân chủ v.v., chúng ta có quyền suy ra rằng những người phê phán những tên phản tỉnh cuội như Bùi Tín, thằng hèn TH, Hoàng Minh Chính v.v. đều là những con người thiếu nhân cách, không có lập trường và thái độ; hơn nữa, những anh hùng liệt sĩ của chúng ta như TT Nguyễn Khoa Nam, TT Lê Nguyên Hưng, ĐT Hồ Ngọc Cẩn v.v. là những kẻ phản quốc; và nói chung, tất cả những người đang chiến đấu chống lại VGCS hiện nay đều là những kẻ phản dân chủ, là cực đoan, là quá khích. Từ cơ sở lý luận đó, chúng tôi quan ngại cảnh giác cộng đồng tỵ nạn rằng, bọn Việt Tân và những kẻ theo đuôi chúng đang ra sức chối bỏ, phủ nhận, bôi bẩn, và hạ nhục QLVNCH, và nói chung, tất cả các chiến sĩ quốc gia chống cộng để được VGCS cho phép bắt tay hòa hợp với chúng.

c/ Ông TPV xác quyết những gì bà Tô Ánh Tuyết (TAT) viết trong thư đã là sự thật toàn vẹn. Cũng như trên, điều đó có nghĩa là lá thư tôi yêu cầu DĐGD đăng trả lời bà TAT là dối trá. Do đó ông TPV khẳng định thêm: có nhận được thư của tôi cũng sẽ không đăng, vì nhân cách, lập trường, và thái độ của thằng hèn TH đủ bảo đảm để khẳng định “lời bà Tuyết” là sự thật rồi. Đó là sự thật.

Sự thật ở đây là cái gì thì tôi tin mọi người đã thấy rõ, đó là sự thật của những kẻ suốt đời lưu manh, nói dối như cuội. Tôi khỏi cần dài dòng. Cũng nhờ chuyện này mà tôi hiểu rõ hơn về con người ông TPV. Tôi có vài người bạn thân thiết trong nhóm DĐGD trước kia đã nói cho biết về ông TPV và sự sang tay tờ báo DĐGD như thế nào. Tôi chỉ nghe và để tâm suy nghiệm. Nay thì sự thật đã được chứng minh cụ thể rồi.


cha Lợi đi làm satellite cho Việt Tân

2. Vấn đề in sách cho cha Lợi

(Trích): “Đọc qua trình thuật của anh trong trích đoạn này, tôi thấy hai lần anh nhắc tới câu hỏi được đặt ra cho ông Chinh Nguyên: “Tại sao cha Lợi không giao cho tôi mà giao cho anh?” Chưa kể câu “vẫn lại bị từ chối bằng câu hỏi ngược như trên” liền sau đó mà ai cũng hiểu là anh gián tiếp nhắc lại cùng một câu hỏi. Người đọc không chú ý và thận trọng đủ có thể ngộ nhận người đặt câu hỏi trong cả ba lần là tôi, trong khi nói một cách ngay tình chỉ trong lần hỏi thứ ba anh mới thực sự gán ghép cho tôi (vì câu hỏi lần thứ nhất –có thể cả khi nhắc lại gián tiếp câu hỏi lần hai đã được anh quy cho “những nhân vật chống cộng ở đây.” ‘Ở đây’ theo tôi hiểu là ở San Jose , nơi anh cư ngụ).

Tại sao tôi nghĩ là có thể gây ngộ nhận cho người đọc? Giản dị vì trong câu hỏi ai cũng hiểu là người hỏi nếu không thân tình thì cũng quen biết nhiều với cha Lợi, trong khi chỉ ít giòng sau đó anh viết: “Cũng nên biết rằng phần đông giới công giáo tỵ nạn xem ông Trần Phong Vũ như là cánh tay nối dài của Lm Phan Văn Lợi ở hải ngoại này.” Trong trường hợp thận trọng đủ để nhận ra ba câu hỏi trên đây là do hai hoặc ba người khác nhau đặt ra với ông Chinh Nguyên thì người đọc lại bị rơi vào một vấn nạn kế tiếp khó tìm được câu trả lời: đó là căn do nào lại khiến ba người (hoặc ít nhất là hai, kẻ ở nam CA, người ở Bắc CA) lại có cùng một câu hỏi giống nhau từng chữ đến thế? Dù sao chuyện này cũng không quá quan trọng để phải dừng lại lâu hơn.

Bây giờ trở lại nội dung chính của vấn đề trong trích đoạn, tôi xin minh xác:

1/ Đúng như điều anh kể lại: ông Chinh Nguyên có kêu điện thoại và yêu cầu tôi cùng ông tổ chức buổi ra mắt hai tác phẩm do cha Lợi trao tận tay cho ông để in và phát hành ở hải ngoại. Tôi không nhớ đích xác ngày giờ nào, nhưng lời yêu cầu này đến với tôi khoảng một tuần sau ngày có buổi sinh hoạt giới thiệu tác phẩm “Viết Từ Hang Đá” của nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy ở phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt mà cá nhân tôi may mắn hiện diện. Những chuyện đôi co dai dẳng được tung lên NET liên quan tới vấn đề tiền bạc chung quanh vụ này lúc ấy ra sao, bà con ở nam và bắc CA đều đã rõ, tôi không cần nhắc lại. Cũng may là sau đó dường như nội vụ đã được giải quyết.

Giữa anh và ông Chinh Nguyen đã trao đổi với nhau thế nào về chuyện này không phải là điều tôi quan tâm. Nhưng điều anh gán vào miệng tôi câu hỏi“Tại sao cha Lợi không…?” mà theo anh, trước đó đã có “những nhân vật chống cộng ở đây” đặt ra với ông Chinh Nguyên y hệt như thế không sai một chữ (!?), chỉ khiến tôi kinh ngạc và không khỏi buồn cho tình đời điên đảo mà tuyệt nhiên không phẫn nộ.

Những người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra đấy là một câu hỏi ngờ nghệch, trẻ con nếu không muốn nói là thiếu lễ nhượng, thật khó tin có thể thốt ra từ cửa miệng một người để hạch hỏi một nhân vật chưa hề quen biết, lần đầu tiên kêu điện thoại cho mình!

2/ Đến đây, vấn đề then chốt cần giải tỏa: bởi nguyên do nào khiến tôi phải miễn cưỡng khước từ lời yêu cầu của ông Chinh Nguyen? Xin trả lời:

a/ Lý do đầu tiên là vì tôi chưa hề thấy “mặt mũi” hai cuốn sách ra sao và nhất là không rõ chuyện LM Lợi giao cho ông Chinh Nguyen in và phổ biến sách thực hư thế nào. Bởi lẽ đây là lần đầu tiên tôi nghe nói tới và cũng lần thứ nhất được ông Chinh Nguyen kêu điện thoại nói chuyện. Ở vào hoàn cảnh tương tự, với tinh thần trách nhiệm và thái độ thận trọng tối thiểu, hẳn rằng bất cứ ai cũng phải dè dặt như tôi.

Cũng cần nói thêm là dù dè dặt không tự mình nhận lời nhưng tôi cũng đã trao điện thoại của mấy anh em trong PTGD để, nếu muốn, ông CN có thể liên lạc nhờ tiếp tay.

b/ Lý do thứ hai quan trọng hơn. Đó là những kinh nghiệm còn nóng bỏng chung quanh việc in ấn và giới thiệu sách của nhà văn nữ TKTT. Cả hai vụ có những nét tương đồng: tác giả còn ở quốc nội; việc ấn loát được thực hiện ở bắc CA và giới thiệu ở nam CA. Nhưng cũng có những khác biệt nền tảng: giữa nhóm xuất bản sách của bà TKTT ở San Jose và nhóm đại diện cư ngụ ở Quận Cam phối hợp tổ chức ra mắt tại hội trường Người Việt vốn đã có những liên hệ quen biết từ trước, trong khi giữa ông Chinh Nguyên (kể cả những nhân sự, tổ chức giúp ông ấn hành sách) và cá nhân tôi chưa hề có cơ hội gặp mặt, nhất là chưa một lần nghe ai nói về nội dung hai tác phẩm do linh mục Lợi giao phó cho ông phổ biến.

Vì lẽ ấy, khi nghĩ tới hệ lụy của những chuyện vừa xảy ra bắt buộc tôi càng phải dè dặt. Vì sao, hẳn anh và mọi người có thể đoán biết. Nó không hề có nghĩa là tôi xem thường sách của cha Phan Văn Lợi và nhóm linh mục Nguyễn kim Điền, và càng không phải vì coi trọng cuốn Hồi Ký của nhạc sĩ Tô Hải hơn hai tác phảm kia như những lời đoán xét vu khoát với nhiều thành kiến không mấy tốt đẹp của anh trong cùng bài viết mà tôi không muốn trích dẫn dài giòng sợ làm bận lòng người đọc.

Là người từng viết một cuốn sách dày 450 trang về cha Lợi –cuốn “Phan Văn Lợi, Người Là Ai?”- cho đến giờ phút này tôi luôn quý mến và kính trọng cha và nói chung Nhóm LM Nguyễn Kim Điền. Không xa, mới chỉ cách nay hai tuần, khi có tin LM Nguyễn Văn Lý bị đột quỵ trong tù, cha Lợi và tôi đã cùng lên tiếng với tư cách hai diễn giả chính trong một chương trình Paltalk của PTYT Khối 8406.” (hết trích)

Sự thật trong vấn đề này là gì?

Thực ra chuyện chẳng có gì nhưng ông TPV đã biện giải quá dài dòng. Để làm gì? Ngụy biện để đổ lỗi cho người khác thôi. Một sự thật hiển nhiên như ông TPV tiết lộ ở trên là ông rất thân với Lm Phan Văn Lợi. Ông có địa chỉ e-mail của cha Lợi và cả số phone nữa. Sách là của cha Lợi. Cha Lợi giao cho anh Chinh Nguyên. Anh Chinh Nguyên không có khả năng in nên nhờ anh Lê Văn Hải với giấy ủy quyền của cha Lợi đàng hoàng. Do sự mách nước của tôi, Hà Tiến Nhất, anh Chinh Nguyên phone nhờ ông TPV giúp ra mắt sách tại Nam California, vì anh Chinh Nguyên không quen biết ông TPV. Chuyện có thế. Nếu ông TPV có điều chi nghi ngờ anh Chinh Nguyên, thì có thể e-mail hay nhấc phone trực tiếp hỏi cha Lợi là biết rõ thôi chứ có gì khó khăn đâu. Việc của cha Lợi, cũng là việc chung nữa. Kèn cựa nhau làm gì, trẻ con và nhỏ mọn lắm, không thấy sao. Câu trả lời của ông TPV “tại sao cha Lợi không giao cho tôi” là do anh Chinh Nguyên kể lại với tôi. Nếu cần tôi sẽ nhờ anh Chinh Nguyên xác nhận. Ông TPV thoái thác giúp ra mắt là vì ông không được cha Lợi giao in và bán sách. Sách của ông thằng hèn TH, ông TPV mau mắn tận lực vì ông được quyền in và bán thoải mái. Đó là sự thật. Sự vòng vo biện bạch của ông TPV là ngụy biện để bào chữa. Đó cũng là một sự thật khác nữa.

Tôi không hề nói hoặc có ý ám chỉ ông TPV coi trọng ông thằng hèn TH hơn Lm Phan Văn Lợi. Vấn đề đối với các linh mục Nguyễn Văn Lý và Phan Văn Lợi, ông TPV nại ra để thanh minh thanh nga thì tôi cũng xin nói thêm cho hết ý. Ông TPV đối với các linh mục thế nào thì tôi không cần biết. Nhưng riêng tôi, tôi vẫn nhất mực việc gì các ngài làm đúng thì tôi cổ võ và ủng hộ, việc gì sai thì tôi cảnh giác và không hợp tác. Với Lm Nguyễn Văn Lý, tôi không trực tiếp quen biết ngài, nhưng tôi rất kính phục ngài về lòng đạo đức, tính can đảm, ý chí bất khuất, và nhất là sự khôn ngoan chừng mực, tranh đấu có sách lược đàng hoàng. Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ liên lạc với một người rất thân cận, coi như cách tay mặt của ngài. Trước đây do sự yêu cầu của vị này, tôi đã viết một số bài ủng hộ cha Lý. Còn về Lm Phan Văn Lợi, tôi rất cũng quí mến ngài, nhưng tôi phải nói thực, kể từ khi ngài ngả theo bọn Việt Tân thì tôi đã chẳng còn mấy tin tưởng ở ngài nữa. Tôi có thể nói rằng cha Lợi coi tôi không đến nỗi tệ, nhưng không phải vì thế mà tôi nhắm mắt ủng hộ việc ngài bắt tay với bọn Việt Tân. Email dưới đây cha Lợi viết cho tôi ngày 12-5- 2007 (nhân cha Lợi đọc bài Lấy Thúng Úp Voi của tôi) chứng minh điều tôi nói:

Bác Nhất quý mến

Mỗi lần nhận được bài viết nào của Bác là tôi phải đọc ngay. Mọi bài Bác viết tôi đều rất thích thú và rất tâm đắc. Cảm ơn Chúa đã cho Bác có một tài năng thiên phú để làm ngôn sứ bằng ngòi bút. Tôi dùng chữ "ngôn sứ" vì lời lẽ của Bác dù đầy bác ái nhưng luôn thẳng thắn, mạnh mẽ, không nể nang (y như cung giọng của các Ngôn sứ Cựu ước và của vị Đại Ngôn sứ là Chúa GS). Lời nói của chúng ta phải cố gắng để vươn tới những đặc tính của Lời TC như nói trong thư Do thái 4,12.

Tôi cũng đồng ý với điều Bác khẳng định trong thư này……………………..

Vài hàng viết vội. Sẽ tâm sự dài với Bác sau. Lúc này khá bận. Chúc Bác luôn thể lực dồi dào để bút lực mạnh mẽ. OK Go ahead!

Thân kính

P.PVL

Tôi rất tiếc cha Lợi đang làm hỏng công việc mà cha Lý đã nhọc công gầy dựng. Giá cha Lợi giữ cái thế đấu tranh độc lập như cha Lý thì còn có thể kiểm soát được Khối 8406 và ảnh hưởng được các nhóm chung quanh. Nhưng khi ngài đi làm satellite cho Việt Tân và sử dụng cả các thành phần dân chủ cuội trong nước cũng như chống cộng bịp tại hải ngoại thì ngài đã đánh mất cái thế của ngài rồi. Đáng tiếc.


3. Vấn đề quan hệ giữa ông TPV và tôi

(Trích): “Tóm tắt cho dễ hiểu: bằng ngôn từ, chữ nghĩa, trong trích đoạn thứ hai này anh minh nhiên cho rằng tờ DĐGD và cá nhân tôi (Trần Phong Vũ) còn nợ anh mà chưa trả. Để minh họa chuyện nợ nần này, anh viết “DĐGD trước đây đã tự động đăng free một số bài tôi viết mà không có ý kiến của tôi.” (Tôi xin mạn phép tô đậm vài cụm từ).

Để hiểu rõ ngọn ngành câu chuyện về “món nợ thứ nhất”, tức là chuyện tự động đăng bài free mà không có ý kiến của anh (!?), có lẽ cần phải đi ngược một chút về quá khứ để anh và tôi, chúng ta cùng nhớ lại: cơ duyên và hoàn cảnh nào anh và tôi gặp gỡ và quen biết nhau để rồi những tháng ngày sau đó có một số bài viết của anh được đăng tải trên nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân?

Cách nay khoảng 6 năm, Uyên Thao từ DC, Lý Đại Nguyên và cá nhân tôi từ nam California hẹn nhau tới San Jose để cùng một số bằng hữu ở địa phương giới thiệu tủ sách Tiếng Quê Hương và một vài tác phẩm do tủ sách vừa ấn hành. Một buổi, trong khi ba anh em chúng tôi đang chuyện vãn với nhau ở một khách sạn địa phương thì chuông điện thoại reo. Lý Đại Nguyên nhắc ống nói, nghe qua rồi trao cho tôi.

Chắc tôi không cần lập lại nội dung những điều trao đổi mang tính xã giao giữa anh và tôi hôm ấy, vì trước cuộc điện đàm chúng ta chưa bao giờ có cơ hội gặp gỡ, nói chi đến chuyện quen biết nhau. Nhưng, ngay sau khi nghe anh nói lý do kêu điện thoại là muốn ghé khách sạn đón tôi đến tham dự một buổi họp mặt của anh chị em trong nhóm Lương Tâm Công Giáo (LTCG), bỗng dưng tôi cảm thấy chúng ta thật gần gũi. Giản dị vì nhóm chủ trương nguyệt san DĐGD ở Orange và nhóm LTCG ở San Jose từ khi ra đời đã có chung một mục tiêu, một đối tượng để cùng nhau theo đuổi và phục vụ.

Tới giờ hẹn, anh đến đón tôi. Trên đường tới tư gia anh Đặng Đình Hiền, người cầm đầu nhóm LTCG để thăm gặp anh chị em, anh đã cho tôi biết chút ít về anh, một người đồng hương Thái Bình, và dĩ nhiên tôi cũng rất vui và vinh dự khi nghe anh bộc lộ những tình cảm mà anh đã dành cho tờ DĐGD và cá nhân tôi từ khi chúng ta còn là hai người xa lạ. Khỏi cần nhắc lại niềm cảm kích của riêng tôi khi mà rất tình cờ, nhờ hảo ý của anh, trong nhiều tiếng đồng hồ hôm ấy tôi đã có cơ duyên được diện kiến, được chia sẻ bữa ăn thân mật, được trao đổi tâm tình với gần như hầu hết những thành viên nam nữ đầy nhiệt tâm với Giáo hội và Quê hương trong nhóm LTCG, trong số có anh, quý anh chị Đặng Đình Hiền, Lê Văn Ý, Trần Việt Yên và nhiều anh chị khác, tôi không nhớ hết.

Sau buổi sơ giao, ngoài những trao đổi qua NET, anh và tôi cũng đã có những lần gặp lại. Trong Đại Hội đánh dấu DĐGD tròn ba tuổi vào tháng 5-2004 với chủ đề “Sống Sứ Mạng Truyền Thông Công Giáo”, nếu trí nhớ của tôi không quá tệ thì có sự hiện diện của anh cùng với một số khá đông anh chị em thuộc nhóm LTCG, đông đào thân hữu, độc giả đến từ nhiều tiểu bang HK và gần 20 anh chị em đến từ Âu Châu, Úc Châu, Canada và cả VN. Nếu không có những cơ duyên hi hữu ấy, tôi trộm nghĩ mọi chuyện sẽ khác. Và như vậy, sự kiện một số bài của anh đăng trên tờ DĐGD làm sao có chuyện “tự động đăng free” hay “không có ý kiến” của tác giả được?!

Dù thời gian đã qua khá lâu mà nên tôi không còn giữ lại những Email trao đổi giữa anh và tôi. Tuy vậy tôi tin rằng anh không phủ nhận sự kiện này.

Riêng chuyện những bài vở đăng trên DĐGD, tôi thấy cũng cần phải nói rõ là không phải chỉ riêng bài của anh, tất cả những bài của các tác giả khác ở hải ngoại, khi được đưa lên DĐGD đều không ai được trả nhuận bút. Riêng một số bài viết của những tác giả ở trong nước được đền bù dưới những hình thái khác nhau là ngoại lệ.

(Có lẽ một điều cần nhấn mạnh ở đây là trong những lần trao đổi qua Email hoặc gặp gỡ trực tiếp, chưa bao giờ anh đặt điều kiện với tôi hay với những anh em trong TS/DĐGD là khi gửi bài cho tờ báo anh muốn được trả nhuận bút. Nếu có, chắc chắn vấn nạn này sẽ không phải đặt ra hôm nay. Thật đáng tiếc!)

Dù muốn tránh, nhưng vì anh đề cập chuyện DĐGD là một tờ báo bán, tôi thấy cũng phải nói rõ để anh hay một chi tiết khá nghịch thường: kể từ số báo ra mắt đầu năm 2001 cho đến hôm nay, tất cả những anh em trong nhóm chủ trương, gồm những người chịu trách nhiệm trực tiếp điều hành tờ báo như Chủ nhiệm, Chủ bút, Tổng thư ký, thành viên các Ban Trị Sự, Tiếp Thị, Ban Biên Tập đều làm việc theo tinh thần tự nguyện, không nhận bất cứ một khoản thù lao nào, dù tượng trưng.

Chúng tôi đã cam kết với nhau từ khi khai sinh DĐGD là tất cả những lợi nhuận kiếm được sẽ dùng vào việc phát triển tờ báo và mở rộng qua những lãnh vực truyền thông, văn hóa Công giáo khác. Thí dụ:

* Thường xuyên phát triển và hoàn thiện các trang web để phổ biến rộng rãi những tin tức, bài vở qua cả ba dạng thái: chữ, âm thanh và hình ảnh.

* Từ vài năm nay, DĐGD có thêm mỗi tháng một chương trình truyền hình trên hệ thống đài SBTN. Để hoàn tất tốt hai tác vụ này, anh em phải tìm kiếm địa điểm rộng hơn, mua sắm thêm những trang cụ điện tử, máy móc để có thể làm việc ngay tại tòa soạn.

* Ngoài ra, trong những năm qua, anh em còn in và phát hành một số sách vở, tài liệu cần thiết cho việc học hỏi của độc giả, thân hữu và nhóm chủ trương như: a/ tập “Lần hạt Mân Côi Để Nên Thánh” ấn hành năm 2002 dịp ĐTC Gioan Phaolô II được linh hứng lập thêm Năm Màu Nhiệm Sự Sáng, b/ hai tác phẩm “Hoc Thuyết Xã Hội Công Giáo”, và “Vai Trò Người Tín Hữu Đối Với Giáo Hội & Xã Hội” (Hai cuốn sách này được biếu không cho các tham dự viên trong Đại Hội DĐGD lần đầu năm 2004). (hết trích)

Các vấn đề nằm trong trích đoạn trên là quan trọng nhất trong bài phản biện của ông TPV. Tóm tắt là xảo trá và ngụy biện. Đọc trích đoạn trên, người ta có thể thấy rõ được thâm ý của ông TPV tuy ông không hụych toẹt nói ra: một là ông TPV ám chỉ tôi là kẻ “thấy người sang bắc quàng làm họ”, thấy ông TPV là chủ báo có tiếng tăm nên mon men đến làm quen để xin đăng bài trên tờ báo của ông. Hai là ông muốn dẫn chứng các hoạt động đấu tranh và tôn giáo của ông để chứng minh rằng ông nói thật. Cách thức lấy việc đạo đảm bảo việc đời.

Được ông TPV cho biết về các việc đạo hạnh của ông cống hiến cho Giáo Hội, tôi xin kính cẩn nghiêng mình thán phục ông. Tôi là một người công giáo, nhưng tự nhận không phải là một tín hữu ngoan đạo như đa số các đồng đạo khác. Tôi rất kỵ việc phô trương lòng đạo đức tôn giáo ra bên ngoài, và càng không bao giờ dám lấy việc đạo tạo việc đời. Vì thế tôi tự thừa nhận không thể so sánh được với ông TPV về lòng đạo hạnh cũng như các công tác phục vụ Giáo Hội ông kể ra trên đây. Đây là sự thật.

Còn về việc quen biết giữa ông TPV và tôi, tôi xin được trình bầy rành mạch như sau:

Hồi lâu lắm rồi không còn nhớ nữa, khi tôi gởi bài viết “Về VietCatholic. Net” lên internet thì ông TPV lấy in trên tờ báo DĐGD của ông, thực tình lúc đó tôi không biết vì không đọc DĐGD. Về sau tôi được biết ông TPV vào lúc đó đang mở chiến dịch tấn công Lm Trần Công Nghị, chủ trang Web VietCatholic. Sau đó, ông TPV còn lấy một số bài viết khác nữa của tôi để đăng trên DĐGD. Cho đến lần tôi post truyện ngắn “Bà Cố” lên internet thì ông TPV lấy đăng và gởi cho tôi cái email như sau:

From: thachle@cox. net

To: hatiennhat@yahoo. com

Subject: Re: BÀ CỐ (chuyện ngắn)

Date: Fri, 25 Nov 2005 23:20:09 -0500

Bottom of Form

Anh Ha Tien Nhat quy men,

Doc cau chuyen..."VUI" anh ke ma sao tu dung toi thay dau xot qua! Anh

em minh phai lamn gi bay gio? Thua anh.

Men,

TPVu

Ông TPV biết địa chỉ email của tôi vì nó có sẵn trên internet. Từ sau cái thư này, thỉnh thoảng ông có gởi email cho tôi nữa. Cho tới một hôm vào buổi sáng trong khi tôi đang lái xe trên Freeway tới chỗ con tôi làm việc thì nhận được một cú phone. Vợ tôi ngồi bên cạnh bắt phone và đưa lại cho tôi. Đó là phone của ông TPV. Tôi trả lời ông vì đang lái xe nên không thể nói chuyện được, và xin ông gọi lại cho tôi 10 phút sau. Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao ông TPV lại có số phone của tôi. Tuy nhiên tôi cũng có thể hiểu được. Tôi có ít nhất 2 người bạn thân trong ban biên tập của tờ DĐGD, và vài người quen biết khác cũng thường lui tới và viết bài đăng trên tờ báo này. Họ đều biết số phone của tôi. Khoảng 15 phút sau ông TPV gọi lại. Ông hỏi thăm và ngỏ ý muốn có dịp gặp gỡ làm quen với nhóm Lương Tâm Công Giáo San Jose mà lúc đó tôi còn là một thành viên. Tôi nói với ông TPV rằng ông gọi cho tôi để bắt liên lạc với LTCG là không đúng người rồi, ông phải gọi cho ông chủ tịch Đặng Đình Hiền mới đúng. Nhưng trong câu chuyện, tôi vẫn hứa với ông TPV là để tôi sẽ sắp xếp cho khi nào ông có dịp lên San Jose . Chuyện quên đi cho tới một hôm, ông TPV lại phone cho tôi và cho biết ông sẽ lên San Jose vào ngày … (rất tiếc tôi không còn nhớ). Tôi đem vấn đề trình bầy trong buổi họp hàng tuần sau đó vào mỗi chiều thứ hai của LTCG và đề nghị cuộc tiếp đón ông TPV tại nhà tôi và tôi sẽ mời anh em ăn cơm luôn. Mọi người đều đồng ý. Đúng ngày hẹn vào khoảng 4 giờ chiều trong lúc anh chị em LTCG tụ họp gần đông đủ tại nhà tôi thì ông TPV phone cho tôi báo cho biết chỗ ông cư ngụ. Một buổi chiều mùa hè nóng nực, tôi để nguyên bộ đồ quần jean, áo thung, mang dép đi đón ông TPV. Tôi tới khách sạn Double Tree gần phi trường và đến thẳng phòng ông ở. Tôi tới thì thấy ông TPV đã chỉnh tề. Ông bước ra và bảo tôi đi liền. Tôi chỉ kịp nhìn thấy trong phòng có một người đàn ông nữa đang còn mặc quần xà lỏn áo thung. Trên đường đi ông TPV mới giới thiệu người đàn ông đó là ông nhà văn Lý Đại Nguyên. Tôi nghĩ trong bụng và ân hận vì đã không kịp một lời chào hỏi ông Lý Đại Nguyên cho phải phép, và có thể mời ông Lý cùng tới nhà tôi một thể. Câu chuyện trong buổi gặp mặt tại nhà tôi chỉ có tính cách xã giao với những lời hứa hẹn hợp tác trong vấn đề truyền thông. Sau lần đó, tôi còn gặp ông TPV một lần nữa vào dịp ông cùng với các ông BS Trần Văn Cảo và Phạm Tất Hanh lên San Jose tham dự ngày hội đồng hương Giáo Phận Vinh. Vào lúc xế trưa, tôi đón các vị này tại nhà hàng Phú Lâm trên đường Story và chở tới nhà ông Đặng Đình Hiền, chủ tịch LTCG. Vì thì giờ cấp bách, cuộc gặp gỡ này chỉ có 4 thành viên LTCG và 3 vị khách. Cũng vẫn là cuộc thăm hỏi thôi, không có gì đặc biệt.

Tất cả sự gặp gỡ, quen biết và liên hệ giữa ông TPV và tôi chỉ có bấy nhiêu. Từ đó tôi xin minh xác các điểm sau đây được ông TPV nói đến trong trích đoạn trên:

- Cho đến bây giờ tôi vẫn không biết số phone của ông TPV, và không hề bao giờ gọi phone cho ông. Liên hệ với ông bằng email thì có.

- Tôi không tham dự Đại Hội Anniversary 3 năm của DĐGD tại Orange County vào tháng 5-2004 như ông TPV nói. Đa số anh em LTCG có đi Orange County nhưng riêng tôi, nói thiệt, tôi muốn tránh. Nhiều anh em LTCG biết điều đó. Cũng nên nói thêm việc này là vào tháng 3-2006, ông TPV lên San Jose ra mắt sách của ông, cuốn “Giáo Hoàng Gioan Phao II, Vĩ Nhân Thời Đại” tại hội trường nhà thờ St. Patrick downtown San Jose . Ông có nhờ LTCG yểm trợ. Một số anh em có đến tiếp tay ông TPV nhưng tôi lấy cớ đau vắng mặt. Tuy nhiên ông TPV có gởi cho tôi một cuốn sách với lời đề tặng và chữ ký đàng hoàng. Cuốn sách tôi vẫn còn giữ trong tủ sách của tôi.

- Tôi đón ông TPV ở khách sạn Double Tree và chở ông tới nhà tôi chứ không phải tới nhà ông Đặng Đình Hiền như ông TPV nói. Cung cách tôi giới thiệu ông TPV để làm quen với các bạn bè của tôi, tôi thiển nghĩ cũng đáng coi là một món nợ đối với ông TPV, nhưng tôi đã tế nhị không nói ra, sợ rằng kể lể về một bữa ăn là điều nhỏ mọn và bần tiện. Nay ông TPV nhắc đến chuyện gặp gỡ này và nói sai nên tôi buộc lòng phải nói, và nói hết.

- Vấn đề ông TPV lấy đăng báo một số bài viết của tôi là một sự thật, ông không hỏi tôi trước. Và như ý trong trích đoạn trên, ông TPV cho rằng những chuyện gặp mặt như thế cùng với các email trao đổi qua lại đã là một sự ngầm thỏa thuận rồi. Đối với tôi chuyện này không thành vấn đề. Tôi luôn luôn nói rằng các bài tôi viết và gởi lên internet là của chùa rồi, báo nào lấy đăng cứ tùy ý miễn là không sửa đổi và giữ nguyên tên tác giả. Tôi hoàn toàn không có ý phiền trách ông TPV lấy bài viết của tôi đăng báo mà không trả nhuận bút cho tôi. Tôi chỉ có ý nhắc nhở để nhấn mạnh đến thái độ của ông TPV coi trọng kẻ thù cũ chưa biết mặt hơn một người quen biết đã từng đóng góp cho tờ báo của mình lâu nay. Nói là ăn cháo đái bát có lẽ cũng không quá đáng. Một điều nữa tôi cũng cần nhấn mạnh về cách thức phổ biến các bài viết của tôi. Thường tôi chỉ gởi cho vài ba diễn đàn và khoảng vài chục bạn bè hoặc thân hữu. Đặc biệt tôi không gởi bài trực tiếp cho website hoặc tờ báo tôi quen biết bao giờ mà chỉ gởi cho chủ nhân website hoặc tờ báo là bạn bè hay quen biết mà thôi. Đó là nguyên tắc trong vấn đề viết lách của tôi: dù tầm thường nhưng cần phải giữ tự trọng tối thiểu của ngòi bút. Như thế có nghĩa là tôi gởi bài cho ông TPV thì có, nhưng chưa bao giờ gởi cho tờ DĐGD của ông. Ông là thân hữu, tôi gởi cho ông đọc. Còn việc ông đăng hay không là tùy ý ông chứ tôi không có ý gởi để xin ông đăng. Người bạn tuy mới quen nhưng rất tâm đầu ý hợp, và có thể nói là rất thân của tôi là anh Hoàng Quý có trang Web “Tiếng Nói Giáo Dân”, khi anh còn sống tôi cũng chỉ gởi bài trực tiếp cho anh mà không gởi cho địa chỉ trang Web của anh. Anh Hoàng Qúy qua đời rồi, tôi ngưng gởi luôn. Một lần duy nhất tôi gởi cho tờ Saigon Nhỏ trực tiếp nhờ bà Hoàng Dược Thảo đăng giúp bài “ Gà vẫn là gà, gà không hóa cuốc” để trả lời ông Minh Võ đã xuyên tạc tôi trông gà hóa cuốc. Bà giúp tôi liền không thắc mắc. Sở dĩ tôi nhờ Saigon Nhỏ là vì tờ báo này ở Nam Cali. Tôi có ý cho ông Minh Võ đọc bài viết của tôi. Sự kiện này trước mắt cho thấy Saigon Nhỏ là một tờ báo thương mại, không nhân danh cái gì cao cả hết, nhưng đã xử sự đẹp, đúng tinh thần truyền thông trung thực với một người xa lạ như tôi vượt hẳn tờ DĐGD luôn luôn nhân danh lý tưởng công giáo “Sự thật giải thoát anh em”.

Những điều tôi trình bầy trên tất cả đều là sự thật. Tuy nhiên quí bạn đọc có thể không tin tôi. Chuyện đó không sao. Tôi có thể chứng minh cho sự thật tôi viết ra bằng cách lật tẩy sự dối trá của ông TPV ngay trong trích đoạn trên của ông. Dễ thôi, không khó khăn gì. Ông TPV viết:

Một buổi, trong khi ba anh em chúng tôi đang chuyện vãn với nhau ở một khách sạn địa phương thì chuông điện thoại reo. Lý Đại Nguyên nhắc ống nói, nghe qua rồi trao cho tôi.” Và một câu này nữa: “trước cuộc điện đàm chúng ta chưa bao giờ có cơ hội gặp gỡ, nói chi đến chuyện quen biết nhau. Nhưng, ngay sau khi nghe anh nói lý do kêu điện thoại là muốn ghé khách sạn đón tôi đến tham dự một buổi họp mặt của anh chị em trong nhóm Lương Tâm Công Giáo…”

Qua sự diễn tả, ông TPV làm như là hoàn toàn tình cờ việc tôi gọi điện thoại cho ông đang lúc ông ở khách sạn, và còn ám chỉ tôi thì cố săn đón để mon men được làm quen với ông. Vậy tôi xin hỏi ông TPV:

a/ Cái điện thoại mà ông Lý Đại Nguyên cầm nhắc lên là điện thoại gì, có phải điện thoại của khách sạn đặt trên bàn trong phòng các ông thuê mướn không? Nhất định là cái điện thoại đó, tôi nói không sai được. Ông mới tới khách sạn làm sao tôi biết được phòng ông ở và số điện thoại của căn phòng đó mà gọi cho ông, thưa ông TPV? Hà Tiến Nhất này kể ra cũng tài ấy chứ, có phải không?

b/ Nếu ông không hẹn trước thì làm sao tôi biết để tụ tập anh em và chuẩn bị bữa ăn để mời ông. Ông thấy đấy, bước vào nhà tôi là bàn ăn đã giọn sẵn ở ngoài deck đàng sau rồi. Mùa hè chúng ta ăn bên ngoài cho mát mẻ.

Vấn đề với ông TPV tôi tưởng viết thế là đã đủ.

4. Với nhà văn Kiên Ái.

Thú thực tôi chả muốn nói gì hơn nữa về anh Kiêm Ái. Nhưng không nói lại sợ anh buồn. Anh vẫn giữ cái thói “ông nói gà, bà nói vịt”. Trong khi anh kết tội tôi thân Tầu, làm tay sai cho Chệt, tôi ức quá cãi lại, chính anh cũng phải xác nhận là tôi cãi đúng. Nhưng rồi anh lại bảo tôi đặt vấn đề không đúng “thời điểm”. Thế là phải thua anh luôn, không cãi lại anh được nữa. Thôi thì tôi chịu thua vậy, nhưng thưa anh KA, tôi ít chữ nghĩa nên chẳng biết được nhiều, anh tha lỗi. Tôi suy nghĩ thiển cận thế này, chỉ có đàn bà con gái người ta mới cần quan tâm vấn đề thời điểm: lúc nào đúng, lúc nào không đúng thôi, chứ còn viết lách lăng nhăng như tôi mà cũng phải chọn thời điểm mà viết sao? Hèn gì mà tôi làm ăn bết bát quá, không sao ngóc đầu lên được. Anh chỉ cho tôi cái bí quyết “thời điểm” với để tôi mần ăn kiếm chút cháo cho vợ con nhờ. Hoàng Minh Chính đi Mỹ chữa bệnh và rao giảng cái kế hoạch “Tiểu Diên Hồng”, bị thiên hạ xúm vào la ó rùm beng, nhưng rồi cũng qua truông nhờ bài phỏng vấn rất đúng thời điểm của anh. Anh tài thiệt. Vậy xin phép hỏi nhỏ anh KA nghe, làm sao anh biết được đúng thời điểm để mà phỏng vấn “Cụ” Hoàng Minh Chính của anh vậy? BS Nguyễn Xuân Ngãi dùng bùa phép nào hay xuất chưởng lực (power) gì mà lôi được cả bộ sậu Kiêm Ái kịp thời chữa cháy cho “Cụ” Hoàng Minh Chính? Cũng là vấn đề “thời điểm” đấy. Lại nữa, chuyện ở cái vùng San Jose đầy sóng gió này, vấn đề Recall anh cũng đã dấn thân rất đúng thời điểm. Khấm khá trông thấy. Hiện nay vụ kiện Brown Act anh cũng tỏ ra nắm vững thời điểm không kém. Mong anh cứ như thế cho cộng đồng tỵ nạn chúng ta ở đây được vui nhộn hơn nữa và vui nhộn mãi.

Sắp đến lễ Giáng Sinh rồi. Quí vị TPV và KA là những con chiên ngoan đạo. Quí vị đi lễ chắc có nghe linh mục giảng lời Thánh Gioan Tẩy Giả: Hãy giọn đường cho ngay thẳng để đón Chúa đến. Kẻ hèn này đạo nghĩa cà chớn lắm, chỉ lõm bõm lời Kinh Thánh thôi, nhưng có thuộc một câu kinh Phật, được cải biên cho hợp thời trang và thường đem áp dụng để đón Chúa Giáng sinh, xin đọc khoe với quí vị cho vui và xin đừng cười. Câu kinh thế này: Dù xây chín chục phù đồ, không bằng luôn giữ lòng cho ngay đường. Lời sau cùng, xin kính chúc Giáng Sinh quí vị: Pax vobiscum. Đừng giận nghe.

Christmas 2009

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

NB Việt Thường- Lý do chống VGCS : Vì Thù Nước Thù Nhà





Audio 2 Lý do NB Việt Thường chống VGCS : Vì Thù Nước Thù Nhà

NB Việt Thường -ÐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VÀ GIAI THOẠI

ÐẠI TƯỚNG NGUYÊN GIÁP

GIAI THOẠI

VIET THUONG

Võ Nguyên Giáp là đại tướng đầu tiên của lực lượng quân sự cộng sản Việt Nam. Ông sinh đầu năm 1912 (tuổi Tân hợi), ở Quảng Bình, cùng quê hương của ông Ngô Ðình Diệm, tổng thống nền đệ nhất cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Xuất thân từ một gia đình nho học, quan lại lâu đời ở đất Quảng Bình nên thiếu thời ông Võ Nguyên Giáp có một cuộc sống đầy đủ so với phần lớn thanh niên Việt Nam lúc ấy, và được ăn học đến nơi đến chốn. Cái gốc nho gia của gia đình đã nuôi dưỡng ông trong tinh thần chống thực dân Pháp.

Tổ chức cách mạng đầu tiên Võ Nguyên Giáp tham gia là Tân Việt, một đảng chống Pháp có xu hướng mác-xít, thời kỳ nhà học giả Ðào Duy Anh làm tổng bí thư.

Do tham gia phong trào thanh niên học sinh chống thực dân Pháp, Võ Nguyên Giáp bị giặc Pháp bắt tù ở Hỏa Lò Hà Nội. Có tài liệu nói ông bị kết án 3 năm tù. Nhưng chính lời ông Giáp nói với người xung quanh thì ông chỉ bị giam vài tháng. Chính tài liệu của Phòng Nhì thực dân Pháp để lại là án 3 năm tù, nhưng thực tế ông chỉ bị có vài tháng tù, sau đó ông tiếp tục được đi học trở lại và lá đơn có bút tích của ông gởi cho chính quyền thực dân Pháp lúc đó, đã thành cái “mầm họa” để sau này những người chống ông trong đảng cộng sản Việt Nam đem ra làm vũ khí khống chế ông. Là học sinh trường Albert Sarraut, trường trung học nổi tiếng nhất Ðông Dương lúc bấy giờ, phần lớn học sinh là người Pháp, còn người Việt Nam, Lào hoặc Miên chỉ loáng thoáng những người hoàng tộc, như anh em hoàng thân Su-va-na Phu-ma, Su-va-na Phu-vông (của Lào) và số ít tầng lớp trên của xã hội Việt Nam lúc đó. Võ Nguyên Giáp đậu xuất sắc các bằng tú tài Tây (phần I và phần II) và tiếp tục theo học khoa luật ở trường đại-học Hà-Nội, trường đại học duy nhất cho toàn xứ Ðông Dương và đậu cử nhân luật. Tuy nhiên, Võ Nguyên Giáp rất yêu môn Sử và để có thêm tiền, ông đã vừa dạy môn Sử ở trường trung học Thăng Long, một trường tư thục nổi tiếng thời bấy giờ về tinh thần bài thực dân Pháp của học sinh và cả một số giáo sư của trường vừa theo học luật ở đại học. Hàng năm, cứ ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng được tổ chức chung với ngày kỷ niệm Jean d’Arc, là dịp để học sinh các trường Bưởi và Thăng Long... đánh nhau với học sinh Pháp ở trường Albert Sarraut.

Võ Nguyên Giáp say sưa với những gì liên quan đến Napoleon ngay từ khi còn là học sinh, cho đến ngày đeo quân hàm đại tướng. Có lẽ cuốn tiểu sử Napoleon mà ông thích nhất là cuốn do Tarlé biên soạn. Có khổ người cũng nhỏ con như Napoleon, cái mặc cảm về tầm vóc đó có thể làm cho Võ Nguyên Giáp tìm thấy chỗ dựa để bùng lên lòng tự tín nơi Napoleon. Và, cũng có thể ông còn dùng những mẫu chuyện tình của Napoleon để vừa tự bào chữa, vừa tự an ủi những chuyện tình của đời ông, cũng thật là éo le.

Lối giảng sử của Võ Nguyên Giáp vừa xúc tích về tài liệu, vừa thống thiết của một người đang sống trong men yêu nước, nên ông được học trò yêu mến và đồng nghiệp lớn tuổi hơn như Ðặng Thái Mai, Hoàng Minh Giám... nể vì. Võ Nguyên Giáp được Trường Chinh đưa vào đảng Cộng sản Ðông Dương. Ông được thường vụ trung ủy lúc bấy giờ coi trọng (gồm Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ v.v...) nhưng thực ra ông chưa giữ nhiệm vụ một cấp ủy nào.

Sau khi Mặt trận Bình Dân ở Pháp bị đổ, chính phủ Pháp năm 1939 đặt đảng Cộng sản Ðông Dương ra ngoài vòng Pháp luật, Võ Nguyên Giáp được cho qua Trung Hoa học quân sự ở trường Hoàng Phố, và cũng là lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp được gặp Hồ Chí Minh, lấy bí danh lúc ấy là Vương. Học được vài tháng, vì tình hình mới lúc đó, Võ Nguyên Giáp được điều về hoạt động trong nước cùng một số đảng viên cộng sản khác.

Dưới quyền trực tiếp của Phùng Chí Kiên, ủy viên trung ương đảng cộng sản Ðông Dương, đã từng học trường quân sự cao cấp ở Nga-xô và đã từng phục vụ trong lực lượng hồng quân Nga, Võ Nguyên Giáp được phụ giúp vào việc tổ chức và huấn luyện (với cái vốn mấy tháng học ở Hoàng Phố) những người tự vệ đầu tiên, mà hầu hết là người Thổ hoặc Nùng.

Giữa năm 1944, Phùng Chí Kiên bị lực lượng của thực dân Pháp phục kích bắn chết. Cái chết này, đến nay còn là một nghi vấn mà các tài liệu của cộng sản Việt Nam hết sức né tránh nói đến. Ðương nhiên Võ Nguyên Giáp và Chu Văn Tấn cùng được cử thay thế Phùng Chí Kiên để lãnh đạo lực lượng vũ trang. Ngày 22-12-1944 tại Tân Trào thuộc tỉnh Thái Nguyên, trung đội vũ trang đầu tiên của đảng cộng sản Ðông Dương làm lễ ra mắt. Hoàng Quốc Việt thay mặt thường vụ trung ương đảng cộng sản Ðông Dương làm lễ trao cờ và trao nhiệm vụ cho trung đội, lấy tên là “Ðội tuyên truyền giải phóng quân”, Võ Nguyên Giáp được cử làm trung đội trưởng và Chu Văn Tấn làm chính trị viên của trung đội.

Sự nổi dậy của nhân dân Việt Nam trên toàn quốc vào năm 1945 thực ra không hoàn toàn là công lao của Việt Minh, một tổ chức do Hồ Chí Minh cùng Hồ Tùng Mậu và vài đảng phái khác hợp thành để mang màu sắc toàn dân, mà nó là sự kế tiếp của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp trong suốt 80 năm, từ Cần Vương đến Ðông Kinh Nghiã Thục; từ Phan Ðình Phùng và Trương Công Ðịnh; Từ Hoàng Hoa Thám và Nguyễn Thiện Thuật, rồi đến khởi nghiã Yên bái của Việt Nam QDÐ do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Tháng 8-1945 chỉ là trung tâm của thời điểm mà ngọn sóng thần dân tộc trổi dậy bởi cái động lực của nạn đói do phát-xít Nhật gây ra; bởi sự mâu thuẫn đảo chính lẫn nhau của Pháp-Nhật, đã làm rõ bộ mặt hèn yếu của những tên lính Pháp thực dân, cộng với hào khí của thanh niên học sinh Việt Nam được nuôi dưỡng âm ỉ qua những trang sử oanh liệt của dân tộc. Rất nhiều đô thị, nhân dân đã tự phát cướp kho thóc, gạo của phát-xít Nhật cũng như kho quân nhu của Pháp và hình thành những chính quyền tự quản trước khi các đảng phái khác đến “tiếp thu”. Thí dụ : ở Yên Bái, nhân dân đã tự động phá kho quân nhu ở Ðồn Cao, cướp gạo và quần áo và đã bầu viên chủ sự nhà giây thép tỉnh tạm thời làm tỉnh trưởng. Sau đó người của VNQDÐ theo quân đội Lư Hán sang giải giới quân Nhật mới tiếp thu chính quyền. Ở Phú Thọ thì chính quyền lâm thời trong tay viên tham tá tòa công sứ, Nguyễn Hữu Chỉnh, trước khi Việt Minh tới do một đội khố xanh giải ngũ làm quản lý đồn điền cho bác sĩ Lương ở Cẩm Khê, mới được kết nạp Việt Minh, đại diện thường được quen gọi là Ðội Phiên.

Cho nên cái lực lượng quân sự nhỏ bé của Võ Nguyên Giáp chỉ làm nhiệm vụ hậu thuẫn cho Hồ Chí Minh về Hà-nội và bảo vệ các cơ quan của Việt minh, đàn áp các lực lượng của các đảng phái khác như VNQDÐ, Ðại Việt, Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội v.v... Lúc đầu Võ Nguyên Giáp giữ bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ lâm thời của Hồ chí Minh. Khi thành lập chính phủ Liên hiệp, Võ Nguyên Giáp được giữ chức thứ trưởng quốc phòng mà ông Vũ Hồng Khanh giữ chức bộ trưởng. Nắm được lòng dân cũng như quốc tế “ngán” cộng sản, nên Hồ Chí Minh khôn ngoan “giả vờ” giải tán đảng cộng sản Ðông Dương, chuyển thành hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, do Trường Chinh đứng đầu. Ðó mới chính là bộ tham mưu và ban lãnh đạo quyền lực nhất ở sau lưng Hồ Chí Minh. Còn bề ngoài, Hồ Chí Minh tận dụng khối đảng viên cộng sản là trí thức hoặc những trí thức được móc nối để “nằm vùng” trong các đảng phái như Trần Huy Liệu, Trần Ðăng Khoa, Hoàng Minh Giám, Hoàng Hữu Nam, Cù Huy Cận và Võ Nguyên Giáp. Cần lưu ý là cho đến tận 1946, vị trí của Võ Nguyên Giáp được đề cao ở cả trong nước cũng như đối với Pháp, nhưng ông ta vẫn chưa được là thành viên của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Ðông Dương.

Võ Nguyễn Giáp, với kiến thức khá uyên bác của mình, với nhãn quan của một nhà sử học, với lòng yêu thích nghiệp võ, ông ta đã đóng góp rất to lớn và hiệu quả cho việc hình thành và phát triển các đơn vị vũ trang mới cho Việt Minh, núp dưới danh nghĩa của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, như các khóa quân sự cấp tốc cho tự vệ, mở trường đào tạo sĩ quan lục quân đầu tiên mang tên Trần Quốc Tuấn v.v... Ðồng thời Võ Nguyên Giáp cũng hoạch định các kế hoạch cho quân chiếm lại chính quyền ở các địa phương mà các đảng phái khác đang nắm giữ như Huyện Thường Tín (Hà Ðông) do Ðại Việt giữ; Vĩnh Yên, Yên Bái, Lao Cai v.v... do VNQDÐ giữ. Cùng các tổ chức các đơn vị Nam tiến mà trong con mắt của những người công sản có thực quyền lúc ấy đã nhìn xa được rằng phải đem quyền lực của miền Bắc Việt Nam bằng quân sự vào Nam.

Hồ Chí Minh đã khôn ngoan chấp nhận cùng các đảng phái khác tham chính nhưng chỉ có tiếng mà không có miếng. Tất cả tổ chức của cộng sản là mượn cái danh của chính phủ Liên hiệp đa đảng để động viên các thành phần nhân dân, trong khí thế yêu nước bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp, thật là dễ dàng đưa họ vào lực lượng vũ trang để nắm lấy họ, sức mạnh thực sự của lúc giao thời và nhờ vào sức mạnh đó mà đã gạt được các đảng phái quốc gia, các tổ chức tôn giáo, các đoàn thể và nhân sĩ trí thức yêu nước.

Những ngày Hồ Chí Minh cùng phái đoàn Phạm Văn Ðồng, Phan Anh, Nguyễn Mạnh Hà v.v...qua họp với Pháp ở Fontainebleau thì Võ Nguyên Giáp với cương vị thành viên của chính phủ Liên hiệp đa đảng, dưới sự lãnh đạo của quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ yêu nước, là bộ mặt công khai của cộng sản về quốc phòng, chuẩn bị chiến tranh, mà Hà-nội và Hải-phòng được coi là trọng điểm. Công sản đem hết lực lượng toàn đảng ra đổ vào lĩnh vực quân sự. Bên cạnh Võ Nguyên Giáp, những nhân vật không tham gia chính phủ, nhưng đầy quyền lực trực tiếp ra mặt như Nguyễn Văn Trân và Nguyễn Khang ở Hà-nội; Lê Thanh Nghị ở Hải-phòng; Phan Ðiền ở Nam-định; vùng Lạng-sơn có Phùng Thế Tài; khu vực Lai-châu, Sơn-la có Bằng Giang; vùng Phú-thọ, Yên-bái, Lao-cai có Ngô Minh Loan, Trần Quang Bình, Việt Hồng, Lộc Giang. Nguyễn Chí Thanh và Trần Hữu Dực ở miền Trung; Trần Văn Trà, Tô Ký, Ung Văn Khiêm, Phạm Ngọc Thạch, Trần Văn Giàu v.v... ở miền Nam, được bổ xung thêm những cán bộ đảng ở Bắc vào như Phan Trọng Tuệ (ở khu 5), Lê Hiến Mai ở Nam v.v...

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, vai trò của Võ Nguyên Giáp nổi bật, nhất là từ lúc được phong hàm đại tướng, giữ chức tổng tư lệnh. Ðó là giai đoạn được trọng dụng nhất của ông ta ở mức từ một trung đội trưởng nhảy lên vị trí đại tướng đầu tiên và giữ nhiệm vụ tổng tư lệnh; cũng như trong đại hội 2 của đảng Lao động (cộng sản trá hình), Võ Nguyễn Giáp nhảy thẳng vào bộ chính trị, ở ngôi vị thứ 4, nếu không kể Hồ Chí Minh, sau Trường Chinh, Lê Duẩn và Phạm Văn Ðồng. Xung quanh ông ta có các thiếu tướng Trần Ðăng Ninh (hậu cần), thiếu tướng Lê Liêm (tổng cục chính trị), Hoàng Văn Thái (tổng tham mưu), Trần Văn Quang (cục tác chiến), Nguyễn Trọng Vĩnh (tổ chức cán bộ). Và, trong các chiến dịch lớn như : biên giới và điện biên, được bổ xung thêm cán bộ đảng làm công tác chính trị là Nguyễn Văn Trân, phụ trách bí thư đảng ủy mật trận. Riêng ở trận điện biên, Nguyễn Chí Thanh cũng được phong hàm đại tướng và thay thế thiếu tướng Lê Liêm ở nhiệm vụ chủ nhiệm tổng cục chính trị. Ngược lại, Võ Nguyên Giáp được kiêm thêm nhiệm vụ bí thư đảng ủy mặt trận.

Giai đoạn oanh liệt nhất của Võ Nguyên Giáp là năm 1954, bước vào những chiến thắng đầu tiên ở mặt trận Ðiện-biên-phủ, người ta đã quên trận thua của ông trước tướng De Lattre ở Vĩnh Yên cũng như vẫn còn là cái bí mật về việc ông được đại tướng Trung cộng Trần Canh cố vấn trong trận biên giới, tướng La Quý Ba cố vấn trong xây dựng tổ chức, và ở Ðiện-biên thì có cả đại tướng Trần Canh, La Quý Ba và thêm nguyên soái Vi Quốc Thanh. Nhà thơ cung đình trước đó đã làm thơ ca ngợi Staline, Hồ Chí Minh, nay thì ca ngợi Võ Nguyên Giáp. Ông còn “vinh dự” được nhà thơ Bút Tre ca ngợi rằng :

“Hoan hô đại tướng Võ Nguyên

Giáp ta thắng trận Ðiện-biên lẫy lừng.”

Sau này, thanh niên học sinh ở miền Bắc Việt nam rất ít người biết bài thơ “nịnh” của Tố Hữu, mà chỉ nhớ hai câu trên của Bút Tre, cho đến cả các bà, các chị bán hàng ở chợ cũng đều nhớ, như họ nhớ đến đại tướng Nguyễn Chí Thanh, người luôn đối đầu với Võ Nguyên Giáp, cũng trong hai câu thơ của Bút Tre :

“Anh Thanh, ơi hỡi anh Thanh,

Anh về phân bắc, phân xanh đầy chuồng”!!!

Dựa vào hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954, chính phủ Hồ Chí Minh, tiếp quản Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra Bắc. Buổi ra mắt nhân dân thủ đô Hà-nội, Võ Nguyên Giáp là ngôi sao sáng sau Hồ Chí Minh trên lễ đài tạm thời dựng ở quảng trường Ba-đình. Ngoài ảnh Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Staline, Ma-len-cốp, Vô-rô-si-lốp, Mao Trạch Ðông, Chu Ðức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai được treo khắp cơ quan, phố phường, trong nước chỉ có ảnh Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Quốc Việt. Cái hào quang ấy nhanh chóng tắt với cái báo hiệu nho nhỏ trên báo Nhân Dân rằng đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp sang sân bay Gia Lâm đón đại tá Phạm Hùng từ miền nam tập kết ra Bắc, và chỉ một tháng sau thì ngôi thứ trong bộ chính trị có chút thay đổi : Phạm Hùng được bổ xung là ủy viên chính thức của bộ chính trị và xếp hàng thứ 4, đẩy Võ Nguyên Giáp xuống hàng thứ 5.

Những cuộc chỉnh quân, chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, trăm hoa đua nở v.v... đẩy mạnh cao trào “đấu tranh giai cấp”, khiến từ thành thị đến nông thôn đều tang hoang và tiêu điều. Nỗi hân hoan về chiến thắng Ðiện-biên-phủ không còn háo hức lòng dân nữa vì ai ai cũng lo sợ, cũng đói. Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị, chiến sĩ thi đua toàn quốc Giáp Văn Khương, tổ trưởng tổ xích hầu đã hạ chết trung úy Bernard de Lattre, không còn được báo đài nhắc đến nữa. Người anh hùng ở trận Ðiện-biên Nguyễn Quốc Trị bị qui kết thành phần địa chủ và Giáp Văn Khương can tội kiêu ngạo của tầng lớp tiểu tư sản. Ðại tướng Nguyễn Chí Thanh, người luôn tự hào vì mới chỉ học đến lớp 4 nổi lên và áp đảo Võ Nguyên Giáp.

Là một trí thức, lại giòng dõi quan lại nên Võ Nguyên Giáp mặc dù đã được “rèn luyện” trong cách mạng nhưng tác phong vẫn không phải là cái mẫu vô sản như Hồ Chí Minh, mặc bộ áo nông dân phanh cúc ngực, cổ quấn chiếc khăn mặt bông, hoặc như đại tướng Nguyễn Chí Thanh, mặc bộ áo lính nhàu nát, bạc màu, vai không đeo sao, chân đi dép lốp và sẵn sàng ngồi ăn cơm với lính ngay dưới đất một cách thoải mái. Ông Giáp lúc nào cũng tề chỉnh mà theo quan niệm của ông, đó là tính “chính qui”, còn Nguyễn Chí Thanh thì chỉ nói đến tính “cách mạng” và lập trường “vô sản”. Trong quân đội, người ta phục tướng Giáp nhưng người ta yêu và gần gũi với tướng Thanh nhiều hơn. Nếu cho bỏ phiếu, chắc chắn tướng Giáp sẽ thua phiếu, nhưng bàn tay cầm cân nẩy mực của Hồ Chí Minh vẫn không cho tướng Thanh, dù được phép bắt giam những đại tá thân cận nhất của tướng Giáp, nhưng vẫn không được chiếm chỗ của tướng Giáp. Bên đại diện cho “hồng”, bên đại diện cho “chuyên” mâu thuẫn nhau liên tục là điều đảm bảo để Hồ Chí Minh nắm chắc được quân đội, không sợ có đảo chính từ phiá vũ trang.

Ngay từ trước 1960, cộng sản Hà-nội đã cho những đơn vị vũ trang chính qui thâm nhập miền Nam để phối hợp với những đơn vị cộng sản nằm vùng sau 1954 nhằm chiếm nốt miền Nam Việt Nam. Sĩ quan cao cấp nhất bị chết trước 1960 khi vượt quá vĩ tuyến 17 về phiá Nam là thiếu tướng Bùi Xuân Ðăng, từng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn độc lập 159, một sĩ quan rất được tướng Giáp yêu mến, hệt như Vũ Lăng, viên tướng từng là học sinh trường Thăng Long ở Hà-nội. Sự xáo trộn nhân sự từ khi có cuộc xâm lăng miền Nam khiến tướng Giáp bị tước tay chân; có lúc đã ngồi chơi xơi nước ở Ðồ Sơn trong tòa biệt thự mà công binh phải vất vả phá đi đập lại hai lần xây mới vừa ý tướng Giáp. Các lãng phí vô tội vạ trong lúc dân còn đói và thiếu chỗ ở, chẳng riêng gì của tướng Giáp, đã làm hình ảnh viên anh hùng (mặc dù là anh hùng có bệ đỡ) ở Ðiện-biên càng xuống giá trong lòng người dân miền Bắc Việt Nam. (Cần lưu ý là ngay Tôn Ðức Thắng cũng cho xây 1 biệt thự lớn ở Hải-dương, tỉnh kết nghĩa với Vĩnh-long, quê của Tôn Ðức Thắng, và khóa cửa bỏ đấy làm... cảnh.) Ðã thế lại có những chuyện từ trong quân đội kể ra là trong chiến dịch Ðiện-biên, đã có nhiều cô gái Thái đêm đêm được bí mật đưa đến chỗ tướng Giáp giúp cho ông ta được minh mẫn đầu óc. Cũng lúc ấy thì tướng Giáp muốn học piano để cho tinh thần được thư duỗi. Và ông ta đã chọn một người dạy cho mình tại nhà riêng : đó là vợ một nhà văn kiêm dịch giả cũng loại “thường thường bậc trung”, khá đẹp với cặp mắt lá răm và thân hình chắc lẳn. Câu chuyện đáng ra có thể ầm ỹ, nhưng may cho ông Giáp là cùng lúc thì nhiều tướng lĩnh và lãnh đạo đảng cao cấp cũng mắc phải cái chuyện bê bối ấy như Bộ trưởng phủ thủ tướng Nguyễn Khang; bí thư thành ủy Hà-nội Nguyễn Văn Trân; bộ trưởng nội vụ Ung Văn Khiêm; bộ trưởng vật tư Trần Danh Tuyên; thứ trưởng giao thông bưu điện Hông Xích Tâm; thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cố vấn tối cao cho thủ tướng Lào, Cay-xon Phôm-vi-hản và v.v... Và, người ta cũng thông cảm với tướng Giáp khi nhớ ra rằng bí thư thứ nhất của đảng là Lê Duẫn cũng ba vợ; trưởng ban tổ chức trung ương Lê Ðức Thọ cũng hai vợ và nhà thơ cung đình Tố Hữu, thường tung tin là bất lực, nhưng cũng có bồ. Chỉ cho đến khi mọi người xì xào cái tin tướng Giáp bị mọc sừng qua bài thơ truyền khẩu ở Hà-nội rằng :

“Phạm Huy Thông, Phạm Huy Thông

Giáo sư nổi tiếng tô hồng, bẻ hoa

Một tay bóp méo sử nhà

Một tay nắn bóp lệnh bà tướng công

Tướng bà dám cắm sừng chồng

Bởi chưng biết thóp tướng ông nhập nhèm

Chồng ăn chả, vợ ăn nem

Thôi thì cùng cảnh lèm nhèm như nhau

Tướng ông trong bụng rất đau

Nhưng Thông lại có đỡ đầu quan trên

Mưu sâu là chước lặng yên

Ðội mũ đạo đức, đeo kiềng nhân luân

Nghĩ rằng việc ở trong quần

Nào ngờ dân đã xa gần đều hay

Khen tài Thông : đúng là Tây !

Tất nhiên những chuyện truyền miệng như thế không qua được Cục bảo vệ chính trị và Cục bảo vệ văn hóa của bộ công an, cũng như Cục bảo vệ của quân đội dưới quyền tướng Kinh Chi. Nhưng, người ta chẳng những không tìm cách xóa bỏ mà còn khéo léo khẳng định bằng cách đưa Phạm Huy Thông về phụ trách Viện trưởng viện khảo cổ, rút Văn Trọng từ báo Nhân Dân về làm viện phó, nhưng thực quyền là ở trong tay ông viện phó này. Và, cái ghế bộ trưởng bộ đại học đáng ra là của Phạm Huy Thông được trao cho người khác. Những người còn “yêu” tướng Giáp bèn liên hệ đến việc Napoleon bị Joséphine cắm cho hàng tá sừng và họ kết luận đó là số phận dành cho “vĩ nhân”.

Thời kỳ đó, một cách tự phát, khi lòng tin của dân chúng vào đảng vào lãnh tụ không còn nữa, thì người ta quay về với tôn giáo, với tử vi và tướng số. Một số trong giới trí thức trẻ vội vào thư viện, xử dụng thẻ đặc biệt, để lén đọc các sách tử vi v.v... mới ngã ngửa ra là hầu hết các sách đó đã được thiếu tướng Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chí Minh, mượn dài hạn !

Họ bình rằng tử vi của tướng Giáp : trong cung quan lộc có cách Vũ khúc, Văn khúc đồng cung lại gặp Hồng loan nên là người văn võ song toàn, thành danh lúc còn trẻ; cung mệnh có cách phiếm thủy đào hoa nên “lẳng lơ” là phải; cung thê có tham lang gặp hóa kỵ thì đúng với cảnh ngộ của tướng Giáp trăm phần trăm.

Có một sự thực là gần như chẳng ai chê trách những mẩu tình hoa lá của tướng Giáp, mà họ còn tô điểm, tiểu thuyết hóa, thi vị hóa. Phải chăng bên cạnh những chuyện tình của từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn, Le Ðức Thọ, Văn Tiến Dũng, Tố Hữu, Nguyễn Văn Trân v.v... nó không bẩn thỉu đến như vậy.

Trong những chuyện tai tiếng mà người ta (dân Hà-nội) không tha thứ cho ông Giáp lại chỉ từ một câu chuyện cỏn con. Ðó là viên trung tá quân y, bác sĩ riêng của tướng Giáp được đưa về làm Giám-đốc Sở y-tế Hà-nội thay Lê Cương. Mới chân ướt chân ráo ở chức vụ Giám đốc, ông ta đã dụ dỗ một nữ y tá ở bệnh viện Saint Paul ra bờ đê, chân cầu Long Biên, “hội ý công tác đặc biệt”. Nào ngờ cả hai bị thanh niên cờ đỏ bắt được quả tang đang làm chuyện “con heo” ở bờ đê. Cô y tá khai là bị cưỡng bức để được cho lên lương và có thể được đi học đại học y khoa ở Thái Bình. Cả Hà-nội phẫn nộ. Ðúng lúc ấy tướng Giáp cho mời viên Giám đốc này lên nhà riêng ăn cơm thân mật trong gia đình. Mọi người tin chắc chí ít ra viên Giám đốc cũng bị thuyên chuyển, nhưng ai ngờ kẻ bị thuyên chuyển ra khỏi ngành y tế là cô y tá trẻ nhẹ dạ ở bệnh viện Saint Paul, còn viên trung tá bác sĩ quân y vẫn được giữ lại trên ghế Giám đốc Sở y tế Hà-nội. Người ta bảo :“Tướng Giáp thù phụ nữ !”

Chiến dịch đánh chiếm miền Nam vào năm 1975, nếu theo cuốn “Ðại thắng mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng (do Hồng Hà viết hộ) thì người ta thấy các nhân vật nổi lên trong công trạng xâm lăng này, trừ tướng Dũng, có đủ mặt Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Phạm Hùng. Còn Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp chỉ le lói bên lề. Phải nhiều năm sau, khi tranh cãi trong việc biên soạn lịch sử, những người “trung thực” mới công bố các bức điện do tướng Giáp ra lệnh và gỡ bí trong suốt 55 ngày của chiến dịch, và kết luận rằng tướng Giáp vẫn cứ là Napoleon còn tướng Dũng không thể hơn được Murat.

Ngôi sao quan lộc của tướng Giáp bị lu mờ dần từ đại hội 5 của cộng đảng ở Việt Nam. Nhưng trong lòng trí thức Hà-nội thì nó tắt ngấm từ lâu, từ những câu nói “nổi tiếng” của ông ta :”Dù cho cả nước có mặc quần xà lỏn vẫn phải làm bom nguyên tử”. Với cương vị phụ trách công tác khoa học kỹ thuật của đảng, ông ta đã không muốn nghe những lời nói chân tình của các tiến sĩ Phan Ðình Diệu, tiến sĩ Hoàng Phương v.v... Ông ta ủng hộ các tiến sĩ Nguyễn Ðình Tứ và Nguyễn Văn Hiệu... những người muốn Việt Nam phải có “sức mạnh nguyên tử”. Nhưng, những người được ông ta ủng hộ, khi có chỗ đứng, đã nhanh chóng quay lưng lại với ông ta để tìm chỗ dựa chắc chắn hơn, đó là gia đình nhà Lê Ðức Thọ. Dư luận cũng nói đến ngôi sao của tướng Giáp đã bị những bàn tay thế lực trong gia đình Lê Ðức Thọ che phủ. Có nhiều mâu thuẫn giữa hai người, nhưng có hai sự việc nhỏ như hạt cát nhưng lại có khả năng làm mù mắt (chứ không cần to như trái núi), đó là đã có lúc trên báo Nhân Dân (có 1 lần thôi) đưa nguyên văn tin của ban tổ chức trung ương, trong đó không biết vô tình hay hữu ý mà thứ tự trong bộ chính trị lại để tên Lê Ðức Thọ trên tên Võ Nguyên Giáp. Ngay lập tức, văn phòng tướng Giáp điện thoại khiển trách báo Nhân Dân và từ hôm sau cái thứ tự tướng Giáp trên Lê Ðức Thọ lại được duy trì. Còn hạt cát nhỏ thứ hai là khi nghe tin Lê Ðức Thọ được đề nghị nhận giải Nobel về hòa bình chung với Kissinger, tướng Giáp đã ngửa mặt cười khẩy !

Những vấp ngã trên bước đường quan lại mới đã làm cho tướng Giáp bước đầu hé mắt nhìn ra ngoài bốn bức tường giáo điều; hé mắt nhìn đến đời sống của lính, những người đã dùng xương máu xây đài vinh quang cho ông, có khi còn cao hơn cái Kim-tự-tháp mà Napoleon đã nói khi đánh sang Ai-cập :”Trên đỉnh Kim-tự-Tháp này, 20 thế kỷ sau họ còn chiêm ngưỡng chúng ta”. Người thay thế ông trong chức bộ trưởng quốc phòng là tướng Văn Tiến Dũng, có bà vợ từng là giao liên của thường vụ trung ủy, từng đóng vai vợ của Lý Chính Thắng để vào Nam chuyển chỉ thị của trung ương cho xứ ủy Nam-kỳ, từng là cán bộ của ban tổ chức trung ương (dưới quyền Lê Ðức Thọ) rất có “khiếu buôn bán, mánh mung”. Bà ta đã tổ chức một mạng lưới “mánh mung” trong quân đội để buôn bán, vận chuyển các hàng “quốc cấm”. Ðược bật đèn xanh bằng hành động của phu nhân bộ trưởng quốc phòng tầng lớp trên trong quân đội bung ra kiếm chác. Một vài phê bình của tướng Giáp về thực trạng đó, tuy còn yếu ớt, nhưng đã giúp ông lấy lại được chút ít uy tín trong quân đội. Lê Ðức Anh, viên đại tá ở khu 9 vọt lên đột ngột, thay thế Văn Tiến Dũng, nhưng cái gọi là những hành động “tiêu cực” càng phát triển mạnh như cỏ gặp mưa. Quân đội bán cả xe tăng, máy bay Mig, nhôm tấm lát sân bay, đạn đại bác, súng, xăng dầu, gỗ quý, vàng, hạt xoàn, đô-la Mỹ v.v... Doanh trại là kho chứa hàng lậu, dùng cả máy bay chở hàng lậu. Khu gia binh thành những điểm chiếu video con heo. Nhiều nhóm sĩ quan đã cho vợ hoặc họ hàng thành lập các “dịch vụ cầm đồ ma” để che bề thật là nơi cho vay nặng lãi : cả vàng, tiền Việt Nam và đô-la Mỹ. Chẳng còn gì là bí mật nữa vì khách hàng không chỉ là tư nhân mà còn là cơ quan, các công ty quốc doanh.

Thành phần yếu thế trong quân đội bất mãn và tướng Giáp được chọn làm “minh chủ” để... “chống đối”! Ðó là lý do trước đại hội 7 của cộng đảng, tướng Giáp sức khỏe còn tốt, sáng điểm tâm vẫn còn ăn được một tô lớn phở tái và hai hột vịt lộn, ra sức vận động cả trong và ngoài nước, nhưng ông ta đã thất bại thảm hại : bị đá ra khỏi trung ương đảng cộng. Kẻ thù của ông ta quá nhiều, quá giàu về tiền bạc, đàn em lắm, đầy quyền lực và đầy thủ đoạn hơn ông ta.

Mới đây, có những tin đồn từ Việt Nam rằng Võ Nguyên Giáp bị quản thúc tại nhà. Rồi lại tin nước ngoài cho hay ông ta được một trường đại học ở Mỹ mời cả hai vợ chồng qua “giảng bài”. Và, đi xa hơn, có nguồn tin rằng ông đại tướng đầu tiên của lực lượng vũ trang của cộng sản Việt Nam, đã 80 tuổi này, đã mua nhà ở Pháp để... an nghỉ tuổi già.

Nếu ghép lại với cái phần cuối của ký giả Pháp Jean Larteguy viết trên tờ Paris Match số ra ngày 18-6-1992 rằng :“Tương lai của Việt nam sẽ ra sao với dân số hiện nay là 67 triệu... nước Pháp vẫn duy trì những ràng buộc sâu đậm với Việt Nam, có thể sẽ đóng vai trò vị hoàng tử của người đẹp ngủ trong rừng...” Phải chăng viên đại tướng ngã ngựa, không phải vì địch mà vì đồng chí của mình, đã 80 tuổi này lại muốn làm “người dẫn đường” cho hoàng tử Pháp đi tìm người đẹp ngủ trong rừng... nguyên thủy Cúc Phương ở Ninh Bình, thuộc miền Bắc Việt nam ?

Ngày 7-7-1992

Võ Nguyên Giáp: Tên đồ tể khát máu của quê hương
Tác Giả : Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền

Lời Giới Thiệu: Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền là Giáo sư về khoa Giải phẫu Tiểu Nhi (Pediatric Surgery) tại đại học noi tieng McGill, Montreal, Canada. Tuy là môt chuyên gia bận rộn, nhưng ông là một trong số những ít bác sĩ quan tâm và viết đến những vấn đề đất nước. BS Duyên Lãng Hà Thượng Nhât, Nguyễn Tiến Cảnh học cùng lớp...

Nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam đã gọi Võ Nguyên Giáp là một thiên tài của quê hương. Tôi chia sẻ ý kiến của ông, nhưng chỉ chia sẻ một nửa thôi.

Vâng, Võ Nguyên Giáp thực quả là một tên khốn kiếp, đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương. Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê hương, thì cần phải xét lại. Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. "Huyền thoại Võ Nguyên Giáp" đã hết còn là một huyền thoại.

Võ Nguyên Giáp sanh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên.

Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung.

Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phú ( Huế ).. Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài.

Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà Nội.

Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong tù.

Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là một giáo sư Sử giỏi và hùng biện.

Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn luyện về quân sự.. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa.

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo sự phân bố của Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân Cộng Sản Việt Minh sau này.

Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh…
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ.

Trên :Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Quang Thuận, Hoàng Đăng Minh, Nhận, Bạch Ngọc Giáp, Sáng ---
Dưới: Lê Liêm, Giáp, Hồ, Trường Chinh, Đặng Việt

Từ năm 1945 cho đến năm 1991( năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau:
- Ủy Viên Bộ Chánh trị
- Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng
- Tổng Tư lệnh Quân Đội
- Phó Thủ Tướng
- Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước.
- Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch.
Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980.

Chức vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:

Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em

Sau trận Điện Biên Phủ năm 1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may mắn bất ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại.

Một số sách viết về Giáp như:
- General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O'Neil (Australia)
- Giáp: the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 ( British )
- Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of California, Berkeley (USA)

Xin mở một dấu ngoặc ở đây về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng như các lãnh tụ của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự chấp nhận của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối cao của Cộng Sản đưa ra mà thôi.

Giáp được các tác giả ca tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình của thế giới ( genius strategist, geniusgeneral of the world ). Từ mấy năm gần đây, các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975 ) được giải mật khiến ta thấy rằng "thiên tài Võ Nguyên Giáp" đã được các đồng chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim Đồng…..trong suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản man rợ lên quê hương mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa sai.

Bản chất của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các "đức tính" đó.

Năm 1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia (Losers are Pirates by James Banerian1984, p.69)

Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp.

Ngày 19 tháng 12, chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực, Tự Vệ Thành là những thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các gia đình khá giả. Đám tiểu tư sản này là những thành phần không có chỗ đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam nếu họ bị Pháp tiêu diệt, bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac Xít Léninist dễ phát triển ở Việt Nam.

Giáp đã viết sách về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng Pháp; Guerre du peuple, l'Armée du peuple ), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này.

Sự thực, quan niệm về chiến tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ hổ tướng của Mao Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới Cao Bằng Lạng Sơn năm 1950.

Giáp thực sự không phải là cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm 1944, theo lệnh Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34 thành viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam.

Tháng 3 năm 1946, 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt Nam để tránh bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân đội. Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân đội Cộng sản Việt Nam từ những năm này.

Từ năm 1950, Trung Cộng không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công Sản Việt Nam. Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết: Trong một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn (sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ
lả hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí.

Theo Giáp: những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta chưa hề xử dũng kỹ thuật này.

Cũng theo Giáp, chính Hồ Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam, giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 (ba) cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức quân đội của Cộng Sản Việt Namm, Giáp chỉ là người thừa hành.

Giáp là một tên hèn.

Năm 1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán…bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn… bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng. Giáp đã để lộ rõ cái hèn, thủ khẩu như bình.

Giáp kệ mặc đàn em bị thảm sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống.

Khi được một ký giả ngoại quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời là y không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout).

Mạng sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới 10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người. Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000.

Trong chiến tranh Việt – Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn không phải là Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những năm 50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba. Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do Trung Cộng ban cho.

Chiến dịch biên giới năm 1950.

Chiến dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam.

Kế hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố vấn Trung Quốc, nhứt là Trần Canh, truyền thụ cho.

Từ năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phátthanh cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số…..

Chiến dịch Tây Bắc 1952

Sau các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh. Hồ Chí Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp.

Ngày 14-10 Việt Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận.

Ngày 16-10 Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất Nghĩa Lộ, quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở Lào.

Đối phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên Phủ

Tháng 5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế hoạch:

1- Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng
2- Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền Trung và miền Nam
3- Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại miền Bắc

Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động.

Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.

Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế hoạch của các cố vấn Tầu.

Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.

Khi Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra.

Chính các cố vấn Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn tiếp liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp. Nhưng sự tham dự tích cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến dịch không hề được Giáp nhắc tới trong các bài viết, trong các sách của y như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch sử. (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War; The Decisive Edge by Bob Seals).

Sự giúp đỡ của Trung Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975.

Sám hối ?

Thay lời kết:

Người hùng Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng.

Chính các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân Pháp trong cuộc chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là do Trung Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển.

Giáp đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã được phơi bầy:

Trong suốt hai cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa vào Trung Cộng gần như toàn diện. Nay họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số phận của dân Việt, bằng cả đất nước do tổ tiên để lại: quê hương đang mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản.

Thời Sự "Nóng"





------------------------------------------

---------------------------------------------------------
Vân Anh -Ngày 1 tháng 10 Hà Nội Chính Thức Bán Nước Cho Bắc Kinh
----------------------------------------