http://nhabaovietthuong.blogspot.com/2012/04/nam-nhannguyen-van-thieutinh-cuong.html
http://youtu.be/LLtgqVYWNg4
“Tính cương quyết bảo vệ chủ quyền Quốc gia” của ông Nguyễn văn Thiệu!!!
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
Hồn Việt UK oline nhận được từ một thân hữu gửi cho bài: “Luận binh pháp Tôn tử trong Nam tiến và phát súng Nguyễn Văn Thiệu… pằng…!” của tác giả Nguyễn Duy Thành.
Sau khi đọc xong bài trên, Nam Nhân tôi nghĩ phải có trách nhiệm đóng góp ý kiến với tác giả, bởi vì nội dung bài viết đã hoàn toàn không đúng sự thật. Cũng như chính nội dung bài viết có lợi cho tập đoàn Việt gian cộng sản qua ngòi bút của ông Nguyễn Duy Thành. Trong bài viết đã phóng đại những sự việc chắc chắn không có thật.
Xin dẫn chứng:
Mở đầu bài viết, ông Nguyễn Duy Thành đã viết nguyên văn như sau:
“Lịch sử viết về cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa: Nguyễn Văn Thiệu thật nhiều, nếu đem xếp lại thì cao to như Dinh Độc Lập. Nhưng khó tìm ra tấm ảnh nào thấy tay ông đang cầm khẩu súng, mặc dù vị lãnh đạo này cũng từng xuất thân từ giới chiến binh!”
(hết trích)
Ngay trong đoạn trên, người đọc thấy lối phóng đại một cách quá lố của tác giả đã làm cho bài viết hoàn toàn mất giá trị, cho dù ông bình luận trung thực đi chăng nữa. Vì ngay đoạn mở đầu đã thiếu trung thực rồi. Bằng cách nào tác giả có thể biết được rằng tài liệu viết về “cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu” của ông, lại cao to như Dinh Độc-Lập? Trường hợp thực như vậy, thì ông đã mất bao nhiêu thời gian để tham khảo, đọc hết số tài liệu kể trên? Và, ông đã tra cứu ra sao để không thấy một tấm hình nào của ông Thiệu đang cầm súng?
Đó là đoạn mở đầu của ông Nguyễn Duy Thành. Đoạn kết bài viết, ông tự nhận là Diều Hâu hiếu chiến như ông đã viết sau đây:
“Rất có thể! Bài viết này đã vượt ra ngoài vị trí Tác giả, và tính “vô tư ” của một bài Báo, nên ắt rằng, Tác giả sẽ bị cho là Diều Hâu hiếu chiến, hay... đôi điều gì đó!”
Trước khi đi vào phần phân tích nội dung của toàn bài, người viết chỉ muốn nói rằng nội dung bài viết của ông Nguyễn Duy Thành có thể tóm tắt bằng hai điểm:
1- Ông đã đề cao ông Nguyễn Văn Thiệu một cách quá lố hoàn toàn không đúng với thực tế lịch sử. Điều đáng lưu ý đặt ra ở đây, là ông đã từng sống dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa chứ không từ một quốc gia khác hay một hành tinh nào đó, hoặc từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cái đảng Cộng sản Việt Nam thống trị.
2- Ông viết vào thời điểm hiện nay, là thời điểm mà có nhiều điều kiện để tìm hiểu sự thật. Không những chỉ qua tài liệu, mà qua việc cư xử cụ thể của ông Nguyễn văn Thiệu từ khi theo gót chân Pháp, cho tới khi lật đổ nền Đệ nhất VNCH, và cho tới ngày ông Nguyễn văn Thiệu nhắm mắt.
Cho nên, nội dung bài viết của ông có hai điều mà chúng ta cần lưu ý:
1- Ông đề cao ông Nguyễn văn Thiệu không đúng với sự thật.
2- Ông hoàn toàn lược bỏ cái tội nặng nhất của tập đoàn Việt-gian cộng-sản hiện nay, mà ông không hiểu một tí gì về chúng, cũng như ông không nắm được một chút nào về những tư liệu căn bản nói lên những sự hình thành, phát triển và vẫn tiếp tục thực hiện đường lối chính trị của chúng cho tới hiện nay.
Nam Nhân tôi xin phân tích theo hai nội dung trên.
1- Về ông Nguyễn văn Thiệu: Qua ngòi bút, ông Nguyễn Duy Thành đã thừa nhận rằng:
“Hay nói đúng hơn, muốn tổ quốc Việt Nam được trường tồn cùng Việt Tộc, thì chẳng có gì hy vọng vào sự cạn trí (Nam Nhân highlighted) của nhóm lãnh đạo đương thời, hay ê kíp mới sau đại hội thứ 11 của đảng CSVN. Mà trong tình thế cấp bách hiện nay, Việt Nam cần phải có một chế độ “dân chủ” để tìm được những khuôn mặt lãnh đạo, mà ít ra, có được bản lĩnh chính trị độc lập như… Ngô Đình Diệm, có tư duy sâu sắc và tiên kiến như… Ngô Đình Nhu, có tính cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia như… Nguyễn Văn Thiệu, cũng nhờ mệnh lệnh của ông cùng tiếng súng chống ngoại xâm của lực lượng Hải quân VNCH năm 1974, hay như tiếng súng của Hải quân Bộ đội năm 1988. Tinh thần bất khuất và sự nằm xuống của con dân nước Việt hôm qua, chính là bằng chứng hùng hồn cho lớp người hôm nay, hay mai hậu cất cao tiếng nói với thế giới rằng: HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM.”
Trong phần này, ông Nguyễn Duy Thành đã có những điều không đúng như sau: Khi ông công nhận rằng Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có được bản lĩnh chính trị độc lập và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, có tư duy sâu sắc và tiên kiến. Nhưng, ông lại không thấy được rằng hai vị trên đã bị chính Nguyễn văn Thiệu và đồng bọn phản Tướng giết chết vì đồng tiền thuê mướn của ngoại bang. Mà ông đã cho rằng Nguyễn văn Thiệu là người có tính cương quyết. Thì cái tính cương quyết này đâu phải là tính cương quyết để bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam, mà đó là tinh thần cương quyết đi theo cái gậy của chính phủ Mỹ lúc bấy giờ. Nói một cách khác đó là một thứ Việt-gian cho Mỹ! Và, trong băng nhóm nội các của Nguyễn văn Thiệu đã chưa có một bộ mặt nào xứng đáng như Cố TT. Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Còn bản thân của Nguyễn văn Thiệu cùng những nhân vật kề cận như Trần Thiện Khiêm, Cao văn Viên, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn văn Toàn, Đặng văn Quang, Tôn Thất Đính… thì tới nay, mọi người đã hiểu bọn họ là ai. Còn nếu cho rằng Nguyễn văn Thiệu đã cương quyết, vì đã dám ra lệnh cho Hải Quân VNCH nổ súng chống lại việc xâm lăng của Tàu cộng năm 1974, thì ông lại càng không hiểu gì. Sự việc năm 1974, Nguyễn văn Thiệu ra lệnh cho HQ VNCH chống lại cuộc xâm chiếm hải phận, hải đảo của VNCH đã không phải do lòng yêu nước, mà đó chính là một nước cờ chính trị để thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ có giữ đúng lời hứa bảo vệ VNCH trước sự xâm lăng của Cộng sản, như đã cam kết trên bàn hội nghị tại Paris, năm 1973, hay không. (việc hy sinh của cố Trung tá Ngụy văn Thà cùng đồng đội xảy ra năm 1974, nghĩa là sau hiệp định Paris, 1973). Đây chỉ là quả bóng dò của Nguyễn văn Thiệu, xem Mỹ còn ủng hộ Nguyễn văn Thiệu ngồi ở cái ghế Tổng thống nữa hay không mà thôi.
Theo Nam Nhân tôi, thì ông Nguyễn Duy Thành đã hiểu sự việc nêu trên, nên trong bài viết, tuy ông đã thổi phồng phát súng Nguyễn văn Thiệu, nhưng lại vội vã thòng thêm tiếng súng của “Hải quân, Bộ đội” việt gian cs năm 1988. Mà ông Nguyễn Duy Thành không thấy rằng cuộc đọ súng năm 1988 không do Hải quân của Vgcs dám chống lại cuộc xâm lăng của Tàu cộng, mà Hải quân Vgcs đã bị Tàu cộng tiêu diệt, bắn như bắn bia trên xạ trường. (xin xem lại đoạn video do Tàu cộng phóng lên YouTube). Sự việc này có khác với cuộc chiến với Tàu cộng vào năm 1979 tại biên giới với Tàu tại các tỉnh cực Bắc Việt Nam. Bởi vì, cuộc chiến năm 1979 với Tàu cộng, đã không do “lý tưởng bảo vệ Tổ Quốc” của tập đoàn việt gian cs, mà đó là cái đảng CSVN đã làm theo chỉ thị của Nga sô, dùng ngụy quân việt gian cs chống lại Tàu cộng nhằm bảo vệ chiến lược bành trướng xâm lăng của Nga sô sang Cam bốt, cũng như cảnh cáo việc Tàu cộng muốn giành ngôi vị lãnh đạo số một trong khối Cộng sản với Nga sô mà thôi.
chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chống Tàu xâm lược
Cho nên, việc đề cao sự hy sinh cao đẹp của cố Trung tá Ngụy văn Thà cùng đồng đội của ông là đúng. Tinh thần hy sinh đó hoàn toàn vì lý tưởng bảo vệ Tổ Quốc. Nhưng, đối với ông Nguyễn văn Thiệu, thì việc này không được coi như một hành động biểu hiện bảo vệ Tổ Quốc, mà đó chỉ là nước cờ chính trị nhằm thăm dò xem Mỹ có còn quan tâm đến vai trò của Nguyễn Văn Thiệu nữa hay không. Bằng chứng, nếu quả thật Nguyễn văn Thiệu thực lòng yêu nước, thì ông ta đã không bỏ cả quân đội và đồng bào để tẩu tán và tìm đến nơi an toàn trong khi đất nước đang trong cơn dầu sôi lửa bỏng, chỉ mành treo chuông. Khi ra tới hải ngoại, Nguyễn văn Thiệu đã tổ chức các cuộc họp để gặp gỡ tên đặc công đỏ Bùi Tín, một tên Đại tá của ngụy quân Vgcs được gửi ra hoạt động tại hải ngoại. Nội dung các cuộc họp này nhằm lên tiếng muốn đi đêm với bọn việt gian cs. Như vậy, Nguyễn văn Thiệu có tinh thần yêu nước hay không. Khi được điều về bảo vệ Phủ Tổng Thống trước sự phản bội của nhóm phản Tướng nhận tiền theo lệnh của Mỹ, thì ông Thiệu đã quay đầu kết hợp với nhóm phản Tướng kia để giết hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Cuối cùng, khi ra đến hải ngoại, ông Thiệu còn muốn Hòa Hợp Hòa Giải với kẻ thù là lũ Việt gian tay sai cho Nga – Tàu.
Thêm vào đó, sau khi “từ bỏ nhiệm vụ”, bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Cụ Trần văn Hương, và ra cái lệnh tùy nghi di tản là một hành động trói tay Quân Lực VNCH; giúp cho việc cưỡng chiếm nước VNCH của ngụy quân CS Bắc Việt một cách nhanh chóng hơn. Và những gì ông đã mang theo cùng vợ con ra hải ngoại (còn tồi tệ hơn việc bỏ của chạy lấy người), sau khi đã trút bỏ gánh nặng quốc gia lên vai Cụ Trần văn Hương, một người không đủ hay đúng hơn là không có kiến thức về quân sự. Đó là chưa kể tới bao Tướng lãnh, Sĩ quan, Binh sĩ… đã tuẫn tiết để giữ tròn tiết tháo của một quân nhân. Ông Nguyễn Duy Thành không thể nói là ông đã không biết chuyện đó.
2- Tác giả Nguyễn Duy Thành đã lấy ý tưởng của Tôn Tử để chứng minh Tàu cộng đã áp dụng phương pháp, mưu kế của Tôn Tử trong cuộc thôn tính Việt Nam là hoàn toàn sai. Âm mưu sử dụng binh pháp Tôn Tử để giải thích việc Tàu cộng xâm lăng Việt Nam, cũng như giải thích việc tập đoàn Vgcs đối phó ra sao trước sự xâm lăng này, không những đã hoàn toàn sai mà còn có thâm ý khác.
Nam Nhân tôi xin dẫn chứng:
Chưa bao giờ bọn nhà Hán từ bỏ ý đồ thôn tính Việt Nam chúng ta. Ý đồ xâm lăng này đã có trước khi Tôn Tử ra đời. Thời kỳ Triệu Đà đánh chiếm Việt Nam, thời kỳ các nước Ngô, nước Việt đánh Việt Nam thì chúng áp dụng cái gì? Thời kỳ nhà Nguyên, chúng áp dụng binh pháp nào? Hay chúng cũng áp dụng của Tôn Tử?
Nếu cứ theo như ông Nguyễn Duy Thành viết, thì người đọc chỉ thấy ý đồ xâm lăng của Tàu cộng có tính toán mà quên mất cái vế đảng CSVN, tức lũ Vgcs đã hình thành mà mục tiêu chúng là để bán nước buôn dân cho Nga, Tàu. Nghĩa là chính chúng đã tình nguyện và mời mọc Nga, Tàu không khác chi hành động của Lê Chiêu Thống đã mời quân nhà Thanh, hoặc Như Trần Ích Tắc đã mời quân Nguyên vào Việt Nam vậy.
Và, cũng nếu viết như ông Thành, thì tập đoàn Vgcs chỉ có cái tội như phần cuối ông đã viết: “Hay nói đúng hơn, muốn tổ quốc Việt Nam được trường tồn cùng Việt Tộc, thì chẳng có gì hy vọng vào sự cạn trí của nhóm lãnh đạo đương thời, hay ê kíp mới sau đại hội thứ 11 của đảng CSVN.”
Nghĩa là tập đoàn Vgcs hiện nay cũng hết lòng cứu nước, nhưng chỉ vì chúng “cạn trí” nghĩa là quá khả năng của chúng: “…thì chẳng có gì hy vọng vào sự cạn trí của nhóm lãnh đạo đương thời, hay ê kíp mới sau đại hội thứ 11 của đảng CSVN.”
Chúng không hề cạn trí, mà chúng còn tiếp tục ủng hộ và thực hiện theo đúng đường lối của đảng CSVN bằng văn bản, trên giấy trắng mực đen ngay từ khi bắt đầu thành lập cái đảng này, cho tới khi chúng tổ chức ĐH đảng lần thứ II năm 1951, ở Việt Bắc. Chính trong cương lĩnh chính trị của chúng đã ghi rõ:
Trích nguyên văn:
“Đảng Lao Động Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx, Engels, Lenin, Stalin, và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn Việt Nam làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng.” (văn kiện đảng toàn tập – tập 12 – trang 444) và:
“Đảng Lao Động Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx, Engels, Lenin, Stalin, và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn Việt Nam làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng.” (văn kiện đảng toàn tập – tập 12 – trang 444) và:
“Đảng Lao Động Việt Nam nhận định cách mạng VN là một bộ phận khắng khít của phong trào hòa bình dân chủ và XHCN thế giới do Liên sô lãnh đạo.” (sách đã dẫn – trang 445). Và trong cương lĩnh chính trị ấy, chúng còn ghi rõ nhiệm vụ của đảng viên là:
“Luôn cố gắng nâng cao trình độ chính trị, trau dồi tư tưởng của mình bằng cách học tập chủ nghĩa Marx, Engles, Lenin, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông” (sách đã dẫn – trang 447).
Và kể từ đó, những ai đã cầm bút viết, đã nghiên cứu tình hình thì không thể nào không thấy được rằng, một quốc gia khi muốn xây dựng đất nước mình, lại lấy tư tưởng của Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình, thì quốc gia đó sẽ thực hiện cho ai? Vì quyền lợi của đất nước nào?
Cũng nên nhớ, sau năm 1949, Mao Trạch Đông đã từng nói rằng hắn sẽ lãnh đạo 400 triệu dân Tàu để tiến xuống miền Nam làm cách mạng (có nghĩa là xâm lăng, thôn tính toàn bộ Đông Nam Á, trong đó kể cả Việt Nam). Như vậy, tư tưởng trên của Mao đã được bọn Vgcs đem vào, coi như chương trình hành động chính trị của chúng từ năm 1951. Cũng kể từ đó, hình ảnh của Mao cũng như của các lãnh tụ của Nga sô và các tướng lãnh của Nga, Tàu như: nguyên soái Bành Đức Hoài, Trần Nghị, Chu Đức… của Tàu cộng được trưng bày chính thức trong các văn phòng tại các cơ quan hành chánh cho tới giáo dục từ trung ương cho xuống hạ tầng xã, tổng, đội tại miền Bắc Việt Nam. Tương tự, hình ảnh của hết thảy lãnh tụ và tướng lãnh của Nga như: Lenin, Stalin, Malenkov, nguyên soái Bulganin, Voloshinov… Gorbachev… Điều này chứng minh những kẻ trong hình mới thực sự là chủ nhân ông của đảng CSVN trong tay Hồ chí Minh và tập đoàn Vgcs.
Cũng nên nhớ, sau năm 1949, Mao Trạch Đông đã từng nói rằng hắn sẽ lãnh đạo 400 triệu dân Tàu để tiến xuống miền Nam làm cách mạng (có nghĩa là xâm lăng, thôn tính toàn bộ Đông Nam Á, trong đó kể cả Việt Nam). Như vậy, tư tưởng trên của Mao đã được bọn Vgcs đem vào, coi như chương trình hành động chính trị của chúng từ năm 1951. Cũng kể từ đó, hình ảnh của Mao cũng như của các lãnh tụ của Nga sô và các tướng lãnh của Nga, Tàu như: nguyên soái Bành Đức Hoài, Trần Nghị, Chu Đức… của Tàu cộng được trưng bày chính thức trong các văn phòng tại các cơ quan hành chánh cho tới giáo dục từ trung ương cho xuống hạ tầng xã, tổng, đội tại miền Bắc Việt Nam. Tương tự, hình ảnh của hết thảy lãnh tụ và tướng lãnh của Nga như: Lenin, Stalin, Malenkov, nguyên soái Bulganin, Voloshinov… Gorbachev… Điều này chứng minh những kẻ trong hình mới thực sự là chủ nhân ông của đảng CSVN trong tay Hồ chí Minh và tập đoàn Vgcs.
Kể từ năm 1951, nhiều biến chuyển thay đổi, thậm chí việc ngụy quân Vgcs phải chống đỡ lại cuộc xâm lấn của Tàu cộng vào năm 1979, đó cũng chỉ là cuộc tranh giành ngôi vị lãnh đạo số một trong thế giới cộng-sản mà thôi. Còn Vgcs vào thời gian 1979, vì theo Nga sô mà xảy ra chuyện. Nên cuộc chiến này không thể gọi là cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc. Vì việc Tàu cộng gây chiến vào Việt Nam cũng chỉ với ý định làm suy yếu khả năng tấn công và xâm lăng của ngụy quân Vgcs theo lệnh của quan thày Nga sô, nhằm mở rộng ảnh hưởng của Nga sang Cam bốt mà thôi. Nếu không thấy được điều này, thì không thể giải thích được việc tại sao khi Nga sô sụp đổ, chúng đã từ chối việc mở rộng vòng tay với phương Tây, mà Vgcs đã vội vã quay trở lại khấu đầu chấp nhận làm tay sai, nô lệ cho Tàu cộng. Tài liệu này, thiết nghĩ không cần phải trưng dẫn với một người có khả năng nghiên cứu một số tài liệu chỉ riêng nói về Nguyễn văn Thiệu mà đã có thể cao to bằng Dinh Độc Lập, thì chắc chắn ông Thành đã không bỏ qua những sự việc kể trên.
Nên khi ông Nguyễn Duy Thành viết bọn lãnh đạo đương thời của tập đoàn Vgcs “cạn trí” là hoàn toàn không đúng sự thật. Mà, chúng đã thực hiện cái cương lĩnh chính trị từ ĐH 2 của chúng vào năm 1951 kìa. Chỉ có điều nếu không hiểu về cộng-sản, không có khả năng hiểu ngôn từ và cách diễn đạt của chúng thì trong lối chơi chữ mập mờ của chúng, người ta sẽ không tìm ra được cái thực. Đó là phải lưu ý rằng, cho tới nay, kể từ sau ĐH 2 cho tới ĐH 11 vừa qua của Vgcs, chưa bao giờ chúng cho ý kiến đề cập tới cái nội dung quan điểm chính trị của chúng trong ĐH 2 là sai lầm. Không những về mặt lý luận, chúng vẫn khư khư là đúng, mà trong thực tế còn cho chúng ta thấy rằng, qua việc cư xử và hành động cho tới hiện nay của đảng CSVN, vẫn chỉ là sự tiếp nối tư tưởng chính trị từ cái cương lĩnh chính trị của Đại Hội 2 việt gian cs, năm 1951. Duy vì tình hình biến chuyển của thế giới và tại quốc nội, nên chúng đã không dám thẳng thừng công khai tuyên bố như những ngày đầu thành lập đảng vào năm 1930: “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Nhưng qua năm 1951, khi chúng thực hiện những việc như trên, thì chúng đã sử dụng từ ngữ uyển chuyển hơn. Thí dụ: Cách mạng cải cách ruộng đất, cách mạng văn hóa tư tưởng, cách mạng công thương nghiệp tư bản tư doanh và chỉnh đốn tổ chức… Nhưng thực chất, chúng vẫn thực hiện những việc “đào tận gốc, trốc tận rễ” bốn tầng lớp “Trí, Phú, Địa, Hào” (các tầng lớp căn bản để xây dựng và phát triển xã hội của đất nước).
Tới nay, khi chúng đưa ra chính sách mở cửa, thì chúng đã rập khuôn Tàu cộng trong việc cai trị dân chúng trong nước. Chúng đã không dám làm một điều nào khác hay trái ý Tàu cộng. Thí dụ như việc xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), thì chúng đã phải sang xin ý kiến của Tàu, chờ Tàu làm trước rồi mới đến lượt chúng sau… Cho tới nay, cũng y hệt như vậy. Việc chúng tổ chức thường xuyên học tập “tư tưởng Hồ chí Minh”, thì đừng có hiểu rằng chúng đã loại bỏ tư tưởng của Mao hay Stalin ra ngoài, không phải vậy. Bởi vì tư tưởng của Hồ, là Hồ đã nói và công khai viết trên giấy trắng mực đen rằng: “Ai cũng có thể sai lầm, chỉ trừ các đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông là không sai lầm.” (sic)!
Hồ cũng đã nói rằng: “Tất cả mọi việc đã có Mao chủ tịch lo nghĩ đến hết rồi, tôi không có tư tưởng gì cả”.
Vậy, việc chúng tổ chức học tập cái tư tưởng gọi là “tư tưởng Hồ chí Minh” đó nghĩa là, mọi việc gì đã có Hồ Cẩm Đào suy nghĩ rồ, còn lũ chúng không hề có tư tưởng gì cả. Chỉ việc làm theo những gì Hồ Cẩm Đào cho phép hoặc sai bảo chúng làm là xong.
Trong lãnh vực nhân sự cũng vậy, chúng ta hãy nhìn xem những kẻ đã kế tục nhau giữ những vị trí đầu lãnh của tập đoàn Vgcs, tức đảng CSVN, trong Bô chính trị cũng như giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy ngụy quyền Vgcs đều là những kẻ có thành tích bưng bô cho Tàu cộng.
Điển hình như các tên Việt gian sau: Đinh Thế huynh, Tô Huy Rứa, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, tới Nguyễn Phú Trọng được đưa lên như vậy, tại sao?!.
Nguyên nhân sự việc mới xảy ra gần đây, là tên Vg Đinh La Thăng, Bộ trưởng giao thông vận tải (GT-VT) của ngụy quyền Vgcs, kẻ đã được phần tin tức của ban Việt ngữ đài BBC, cũng như giới truyền thông lề phải trong nước loan tải: “Đây là một thế hệ chính khách dám làm, có tư duy rộng thoáng và kiên quyết”, thì chúng ta đừng quên rằng, trước khi được đưa vào có chân trong trung ương Vgcs và giữ ghế Bô trưởng Bộ GT-VT, thì Đinh La Thăng khi còn phụ trách công ty dầu khí của Việt Nam, mọi hợp đồng xây dựng trong ngành dầu khí chúng đều đã giao cho nhà thầu của Tàu cộng mà không giao cho các nhà đấu thầu các quốc gia khác được trúng thầu. Tương tự sau vụ phản đối của người dân về việc xây dựng đường cao tốc, là một công trình chúng định giao cho Tàu cộng thực hiện. Và, con đường cao tốc này có lợi cho Tàu cộng hơn là cho Việt Nam về kinh tế, chính trị lẫn quân sự; chúng cũng giao cho Đinh La Thăng. Ngoài ra Đinh La Thăng cũng là kẻ đang ra lệnh phải sửa đổi lại hết mọi tuyến đường trong nước. Việc sửa đổi này sẽ đem lợi cho ai? Cũng giống như việc mở các tuyến đường để thành lập kế hoạch một vành đai, hai hành lang về kinh tế; thiết lập các đặc khu kinh tế cho di dân Tàu cộng vào Việt Nam. Như chúng ta đã biết tại Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài gòn, Bình Dương… Đặc khu kinh tế dành cho dân cư Tàu đã lấy tên là gì, mọi người đều rõ. Nguyên tại tỉnh Đồng Nai, chúng cũng dành một con đường đẹp nhất và đặt tên là Dương Tử Giang! (tên một con sông bên Tàu. Có nghĩa là nước sông của Tàu cộng đã chảy vào tới Đồng Nai và nó sẽ tràn vào để hòa chung dòng Cửu Long của Việt Nam vậy!!! Tương tự việc tên Giang trạch Dân đã vào tắm tại bãi biển Hội An, Đà Nẵng năm 2002).
Về mặt tinh thần, chúng ta cũng nên nhớ rằng tên bí thư Hải phòng Nguyễn văn Thành dám ngang ngược hành động như đã xảy ra trong vụ của ông Đoàn văn Vươn và dám bao che cho đồng bọn của chúng, tất nhiên là có sự đồng thuận của các tên lãnh đạo chóp bu trong tập đoàn Vgcs; lý do Hải Phòng là hải cảng quan trọng tại miền Bắc Việt Nam, nơi sinh tử, khai thác kinh tế của Tàu cộng. Còn tại Đà Nẵng với tên bí thư Nguyễn Bá Thanh (đã từng được Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Dòng dông Xanh của Việt Tân, nhà dân chủ hàng đầu của Đinh Thạch Bích) ca ngợi và chúng đã dám làm những việc tạm gọi là chống đối lại ngụy quyền trung ương của Vgcs là vì có sự chống lưng của Tàu cộng. Điều nữa, Nguyễn Bá Thanh được chọn như một con gà để thay thế Nguyễn Tấn Dũng sau này, trường hợp bất trắc xảy ra.
Trong cuộc họp nhà báo của Vgcs mới đây, tên Trần Gia Thái, nguyên làm giám đốc của đài truyền hình Hà nội, nhờ vào việc quay phim những người biểu tình chống Tàu cộng chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, xâm chiếm Biển Đông của Việt Nam. Tên Trần Gia Thái đã phê phán những người biểu tình chống sự xâm lăng của Tàu cộng là “tập hợp của lũ phản động”. Ngay trong buổi họp trên, hắn được thăng vọt lên Phó chủ tịch hội nhà báo Vgcs với hứa hẹn “thăng quan tiến chức” hơn nữa.
Những sự việc nêu trên, không lẽ tác giả Nguyễn Duy Thành đã không đọc, không nhìn thấy? Những việc trên, là việc vừa xảy ra trong năm 2012 này. Cho nên việc đôi co qua lại của phát ngôn việc Vgcs với phía Tàu cộng, mà gần đây với đáp trả ngoan ngãn hơn của Hoàng Trung Hải, Phó thủ tướng của Vgcs, thì chỉ là một vở kịch Tàu cộng cho phép diễn nhằm tẩy sạch bộ mặt Việt-gian của đảng CSVN cho có một chút gọi là thành tích “yêu nước” trong mục đích lừa bịp người dân Việt (trong đó có ông Nguyễn Duy Thành). Cho nên ông Thành mới thấy chúng “cạn trí”, nghĩa là chúng đã tận sức của chúng rồi mà không được! (sic) Mà, ông đã Không thấy được chúng chả “cạn trí” chút nào cả. Mà chúng tập trung mọi nỗ lực từ trí óc, công sức mở cửa Nhà Việt Nam thật rộng để đón rước đoàn quân xâm lăng Tàu cộng vào với thành quả lớn nhất mà sự hao tổn công sức lại nhỏ nhất về phía giặc Tàu.
Xin thêm một vài dẫn chứng khác để ông Nguyễn Duy Thành “tường lãm” như sau:
- Nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, tập đoàn Vgcs nhắm tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương chỉ là phần phụ, mà mục đích để chúng ca ngợi tên đại việt-gian Hồ chí Minh lại là phần chính. (** ch
- Trong lễ Hội Đống Đa, nếu thực lòng Vgcs có lòng tự hào về chiến công chống giặc ngoại xâm phương Bắc của Cha Ông chúng ta thì trong tổ chức, chúng phải sắp xếp những nhân vật ít ra cũng phải xứng đáng với chiến tích lẫy lừng chống quân nhà Thanh của Đại Đế Quang Trung. Ngược lại, chúng chỉ cử một nữ Phó chủ tịch Hà nội cùng một tên tướng quèn tới tham dự. Cũng như kẻ được chọn đọc diễn văn trong buổi lễ chỉ là tên chủ tịch quận Đống Đa.
Qua các sự việc kể trên, người ta có thể nhận ra Vgcs đã “phụng mạng, khâm chỉ” Tàu cộng đến mức độ nào rồi. Và, chỉ nhằm để xoa dịu lòng dân nhất thời mà thôi.
- Vụ tại Lào Cai, Vgcs đã không hề lên tiếng phê bình, chỉ trích công khai hay cách chức nhóm lãnh tụ tỉnh Lao Cai (chắc chắn tên bí thư tỉnh Lao Cai cũng có chân trong Ban bí thư trung ương của Vgcs), đã ra lệnh cho bọn xướng ca vô loài của chúng sang Tàu, đóng vai Thi Sách, Trưng Trắc Trưng Nhị để tế lạy tại miếu thờ tên tướng giặc xâm lăng Mã Viện. Điều này là “cạn trí” chăng?
Kết luận:
Nam nhân tôi chỉ muốn nói rằng, bài viết: “Luận binh pháp Tôn tử trong Nam tiến và phát súng Nguyễn Văn Thiệu… pằng…!” tuy là quan điểm của cá nhân tác giả Nguyễn Duy Thành, nhưng một khi nó được phổ biến rộng rãi thì sự tác hại của nó chẳng thua gì dịch cúm gà, nhiều người sẽ bị huyễn hoặc qua việc ông lấy “Binh pháp Tôn Tử” nhằm giải thích bước xâm lăng của Tàu cộng. Và họ sẽ cho rằng việc xâm lăng Việt Nam chỉ do Tàu cộng chủ xướng và quyết định; còn tập đoàn Vgcs, tức cái đảng CSVN cũng chống đối. Nhưng vì chúng “cạn trí” mà thôi và cũng do chúng sợ hãi chiến lược trong cái “Binh Pháp Tôn Tử” mà Tàu cộng đang áp dụng.
Như vậy, những ai không có điều kiện để nghiên cứu một đống tài liệu cao to bằng Dinh Độc Lập, thì không thấy được rằng kẻ đi bước đầu tiên để mở cửa tuyên bố thành lập tổ chức, với cái tên là đảng Cộng-sản Việt nam nhằm bán nước cho ngoại bang là Việt-gian cộng-sản, nhắm tiêu diệt những thành phần ưu tú của Việt Nam cũng chính là bọn Vgcs. Tới bây giờ, chúng vẫn tiếp tục làm tay sai cho ngoại bang về phương diện kinh tế, nhằm biến tất cả người dân Việt thành hàng hóa hoặc công cụ sản xuất ra vật chất ngay tại quốc nội, hoặc lao nô, nô lệ tình dục nơi xứ người… kể cả trẻ em. Tài nguyên của đất nước, nghĩa là toàn bộ đất nước và người dân Việt Nam chẳng chừa một món nào. Những văn bản bán nước đã được thực hiện, ký kết từ thời kỳ tên đại việt-gian Hồ chí Minh còn sống và hắn còn nắm giữ đầy đủ quyền lực trong tay. Dựa vào bút tích của Ưng văn Khiêm, Phạm văn Đồng mà Tàu cộng tới nay vẫn mang ra để cướp lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam một cách công khai.
Và nên nhớ rằng, khi chúng ta chỉ nói tới Hoàng Sa, Trường Sa và lãnh hải, thì chúng ta quên việc Vgcs chỉ thị cho tên Vg Trần Cộng Phụng sửa lại đường ranh giới giữa Việt Nam và Tàu cộng, khiến cho Việt Nam bị mất trên hàng ngàn cây số vuông lãnh thổ; trong đó có cả sông ngòi, đồi núi, danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử Việt Nam cũng lọt vào tay Tàu cộng.
Vài lời thô thiển xin được đóng góp với tác giả Nguyễn Duy Thành, cũng như quý bạn đọc, để thấy chúng ta cần nhận rõ bộ mặt Vgcs qua chính những bút tích trên giấy trắng mực đen và mọi hành động chúng đã tự thực hiện với thời gian gần một trăm năm trong lịch sử của dân tộc (chính xác là 83 năm), chúng tình nguyện làm Việt gian, tay sai cho ngoại bang. Nên nếu nghe như những gì ông Nguyễn Duy Thành viết, thì chúng ta vẫn “có thể” hợp tác với Vgcs, thức tỉnh chúng, để cùng chống Tàu cộng. Điều này hoàn toàn sai lầm 100%. Và nếu những người yêu nước mà theo phương thức này sẽ trở thành hoặc là dân chủ cuội, yêu nước cuội, đấu tranh cuội; hoặc là sẽ bị tiêu diệt. Cho nên đồng loạt phải chống Vgcs lẫn Tàu cộng. Đã chống Tàu cộng thì phải chống Vgcs. Chống Vgcs thì phải làm suy yếu, đánh tan mọi ưu thế của Tàu cộng hiện đang củng cố trên đất nước chúng ta trên mọi lãnh vực, từ văn học nghệ thuật, kinh tế, nội an, trị an… Bởi vì suốt từ 1950, cho tới nay, đảng CSVN, tập đoàn Vg cai trị đất nước Việt Nam đã tạo mọi điều kiện dễ dàng cho việc Hán hóa của Tàu cộng vào Việt Nam, trên người dân Việt và đất nước chúng ta.
Chân thành cám ơn quý độc giả đã bỏ thời gian theo dõi bài viết này.
Anh Quốc, ngày 12 tháng 4 năm 2012
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
Chính khí việt :Xin Nghe audio bài này qua giọng đọc của Chính Khí Việt và lưu ý phần phụ thêm bình loạn về nội các TT. Nguyễn Văn Thiệu có đề cập đến Trung Tướng Trần Văn Trung con rể của mụ Tuần Chi nhân tình của ác tăng Thích Đôn Hậu... kẻ đã mất dạy vô ơn khi nhận định về Ngưới Lính VNCH như sau: "Quân đội VNCH đi đến đâu thì tàn phá đến đó, trong khi quân đội giải phóng đi đến đâu thì không làm rơi rụng ngọn cỏ lá khoai"
------------------------------------------------------
LUẬN BINH PHÁP TÔN TỬ TRONG NAM TIẾN
và
PHÁT SÚNG NGUYỄN VĂN THIỆU
..pằng.. ..!
NGUYỄN DUY THÀNH
Lịch sử viết về cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa: Nguyễn Văn Thiệu thật nhiều, nếu đem xếp lại thì cao to như Dinh Độc Lập. Nhưng khó tìm ra tấm ảnh nào thấy tay ông đang cầm khẩu súng, mặc dù vị lãnh đạo này cũng từng xuất thân từ giới chiến binh!
Vậy, nay quốc gia mà ông từng có công xây dựng đang bị Hán hóa thì ông đã về thiên quốc. Nhưng tại sao phải cần tiếng súng Nguyễn Văn Thiệu trong tình hình chính trị Việt Nam hiện nay?
Những dòng chính luận quốc sự dưới đây bắt nguồn từ trình tự quan sát mối quan hệ Việt-Trung trong vòng 2 năm trở lại trên các mặt chính yếu, thì có nhiều điểm khả hữu được đưa ra để nhận định rằng: Nếu giới đương quyền Việt Nam cứng rắn với Trung Cộng, và kịp thời Đổi Ngược chiến lược trong 2 mặt ngoại giao và quân sự, thì cục diện quốc gia sẽ tạm thời khả quan hơn, trước khi đi tìm một giải pháp chính trị lâu dài và chắc chắn. Nếu không, Việt Nam sẽ rất sớm mất chủ quyền!
Để thấy rõ điểm quan trọng nói trên, xin luận để tường:
ĐẠI CƯƠNG TÓM LƯỢC
BẮC KINH VÀ TÔN TỬ KẾ TRONG CHIẾN LƯỢC HÁN HÓA VIỆT NAM
Ngày nay, nhân loại cùng nhau đưa cao khẩu hiệu: Thế giới là một mái nhà, nhờ vậy, một số quốc gia yếu nhỏ chuyên lệ thuộc đã nhận được sự tôn trọng và hòa ái bằng những hiệp ước bất tương xâm ra đời.
Nhưng sự may mắn này đã ngoại lệ với Việt Nam. Bởi Trung Hoa không từ bỏ tham vọng mở rộng không gian địa lý về hướng Nam, do đó, sự âu lo hiểm họa ngoại xâm đối với dân Việt được ghi nhớ bằng hai chữ: Muôn Đời.
Tuy nhiên, mục đích xâm chiếm nước Việt thời xưa và nay đều giống nhau, nhưng hình thức thì khác xa. Thay vì năm xưa, Bắc triều phải hao tổn cho đội quân binh hùng tướng mạnh, còn ngày nay con cháu người Trung Hoa thông minh và mưu lược hơn, biết vận dụng tiền tài thặng dư để thực hiện những cơ kế mờ ám nhằm đạt được những mục tiêu bí mật, mà chính lãnh đạo của các quốc gia bị xâm chiếm không lường ra được hậu quả nên đã tiếp tay với kẻ thù, và tự mình phải công khai văn bản chiến thắng của đối thủ. Với chiến thuật xâm lăng bằng trí óc này sẽ tạo nên một sức công phá lâu dài và ghê gớm, có thể hủy diệt một dân tộc!
Hiện trạng Trung Cộng đang ngấm ngầm xâm chiếm Việt Nam cũng là như vậy!
Nhưng để đạt được mức độ xét đoán cao về các chiến thuật và chiến lược của Trung Cộng , thì việc khái luận mọi vấn đề xin dựa vào Binh Pháp Tôn Tử, một binh học truyền thống của tổ tiên người Trung Hoa từng tự hào, và ngày nay con cháu họ vẫn sử dụng để hoạch định quốc sách, và sở dĩ, phải dựa theo tập toàn thư binh pháp này, nghĩa là nói đến căn cơ mưu lược chính trị được đặt lên hàng đầu nhằm hỗ trợ cho động lực quân sự , để xét đoán cùng chứng mình rằng. Giới đương quyền Việt Nam không có khả năng lãnh đạo, không biết nhận định chiến lược của đối phương nên đã “ mắc mưu ”rồi sợ hải, trong khi, có chỉ số rất cao để khả tin là vũ lực sẽ không thể xảy ra trong đại cuộc Hán hóa Việt Nam của họ.
Mà tất cả, kế hoạch Nam tiến của Trung Cộng đều bắt đầu từ Kế thứ 15 là: Ám Độ Trần Sương, tức tạm hiểu là (đi con đường không ai để ý), hiểu giản dị là xâm lăng không bằng súng đạn, vì sách lược này vô cùng phù hợp với xu thế hòa bình - toàn cầu hóa hiện nay, thứ là, ít bị phát hiện và kháng cự từ một dân tộc có truyền thống chống ngoại xâm quật cường như Việt Nam.
Cũng từ việc lấy Kế thứ 15 làm chủ đạo, phía Trung Cộng đã triển khai bước xâm lăng đầu tiên bằng Kế thứ 8, là:Vô Trung Sinh Hữu, tức (không có mà làm thành có), nghĩa là Kế này họ chiếm được Hoàng Sa. Từ việc Hà Nội im lặng chịu thua đã nói lên Trung Cộng thắng một mưu mẹo nhỏ là “ ném đá dò lòng cuội”, nhưng “cuội” đã cúi đầu, thì họ tiến tiếp vào vụ Bauxite Tây Nguyên.
Nay, thêm vụ cho thuê rừng trong 10 tỉnh xen kẽ theo chiều dài địa lý Việt Nam, về sự kiện này, tuy có nhiều phân tích và bình luận gia đề cập, nhưng đã không đào sâu vào quyền của các quốc gia được thuê và ý đồ chiến lược. Trên bề mặt của vấn đề thì cho rằng, có 3 quốc gia là Trung Cộng - Đài Loan và Hồng Kông, nhưng thực ra chỉ là độc chiêu của Trung Cộng.
Tại Sao???
Vì rằng, hợp đồng cho thuê là 50 năm. Nhưng riêng Hồng Kông đối với Trung Cộng chỉ xếp loại đơn vị gọi là: Đặc Khu, sau khi Anh Quốc trả lại độc lập vào ngày cuối cùng của tháng 12 năm 1997, nhưng được hưởng theo quy chế tự do trong vòng 50 năm, tính từ đó đến nay đã được 13 năm, sau đó phải hồi quy cố quốc, như thế, chiếu theo thời hạn 50 năm cho đến lúc hết hạn hợp đồng, quyền hạn thuê rừng sẽ thuộc về ai???
Riêng Đài Loan, ai xác định sau 50 năm không ngã về quốc mẫu Trung Hoa??? Hoặc, ai khẳng định Trung Cộng không núp dưới tên của các công ty Đài Loan???
Không cần phân tích thêm thì cũng ước tính ra được trong vòng 5-10 năm sau. Việt Nam sẽ biến thành vùng “xôi Việt, đậu Tàu”. Vì tính theo chiến thuật, thì 10 tỉnh cho thuê rừng không theo lối co cụm, mà rải rác phân bố 1 kềm 5 tỉnh lỵ của Việt Nam thì mọi biến động về quân sự và chính trị, đặc biệt là kinh tế đều có thể nằm trong sự khống chế của đối phương.
Như vậy, về lâu dài, Trung Cộng sẽ thắng thêm Kế thứ 16, Kế này cũng là mục đích trọng yếu của chiến lược bắt buộc họ phải thành công cho bằng được! Nhưng nếu Trung Cộng đạt được Kế này thì một tai họa khủng khiếp sẽ đến với Việt Nam, và rất có thể nó sẽ xảy ra! Kế đó là : Phản Khách Vi Chủ, tức (biến chủ nhà thành khách), khi người Tàu từ từ di dân qua đất Việt rồi sinh nở và phát triển, chui sâu leo cao vào cơ cấu lãnh đạo từ hạ tầng lên thượng tầng cơ sở, khi đó quốc hiệu Việt Nam chỉ là cái vỏ.
Tuy nhiên, các điểm vừa nêu chỉ mới trình bày được dã tâm cùng thế lợi đã đạt được của phía Trung Cộng trong lộ trình Nam Tiến hiện nay, nhưng tại sao Bắc Kinh đã không gặp một trở ngại nào?
Loại trừ đi, yếu tố tiêu cực là lãnh đạo Việt Nam bị Trung Cộng “sập bẫy” bằng Mỹ Nhân Kế, hay tham nhũng mua chuộc (vì ngoài sự quan sát của Tác giả)! Mà chỉ xét đến hướng tích cực (nếu có), thì bảng so sánh cụ thể khách quan dưới đây, diễn tả rất đầy đủ các phương diện trọng yếu của cả 2 quốc gia đang đồng thực hiện trong chiến thuật và chiến lược của mình:
SO SÁNH – PHÂN TÍCH CHUNG CHIẾN THUẬT VIỆT - TRUNG
Truyền Thông:
Khi đã thắng được một số Kế trong các chiến thuật căn bản, để làm chủ vài nơi trọng yếu như biển-đảo, bauxite Tây Nguyên, thuê đất ..vv..vv.. Thì lãnh vực truyền thông đang được Bắc Kinh đặt lên hàng đầu. Nhưng Hà Nội đã không quan tâm.
Đó là, kể cả các trang Mạng internet (bán và không chính thức) đều được Trung Cộng sử dụng, trong khi đó, ai cũng biết quốc gia này quản lý gắt gao về kiểm duyệt. Một số bài viết mang tính hiếu chiến của các Bloger, cũng như nội dung của nhiều bài Báo được viết bởi một số cấp Tá và Tướng về hưu muốn kiến nghị, tham mưu, đòi hỏi mở cuộc chiến tranh để chiếm Biển Đông và thanh toán Việt Nam trước khi âm mưu với Đông Nam Á.
Nếu bảo là hữu nghị thì tại sao nhà nước Trung Cộng vẫn cố tình cho phép lưu hành lâu dài các nội dung nói trên..?
Nhưng điểm cần chú ý là các vụ “tàu lạ” đâm thuyền ngư dân Việt được sắp xếp không theo trình tự liên tục, mà rải rác tháng nào cũng có một hay hai vụ, và thường xảy ra vào ban đêm. Xét theo quan niệm hải hành, dù là một thương thuyền to lớn đến đâu; có khi ngay cả, trong binh chủng Hải quân thì quan niệm về sức mạnh của thần linh thần biển bao giờ cũng tạo cho người ta ý niệm cầu may trên hải trình, huống hồ gì, ý niệm thiêng liêng này sao lại không có trong bản thể vốn nặng tính truyền thống của người dân chài lưới Trung Hoa, để mà có ác tâm gây sự hải hùng với đồng ngư nước Việt!
Nhưng sở dĩ, Trung Cộng phải dàn dựng ra cái kế: Sát Kê Hách Hầu, tức (giết gà cho khỉ sợ), bởi nhiều mục đích. Nhưng cao chiêu nhất của họ là muốn hướng dư luận, nhất là sự chú ý của giới lãnh đạo và thành phần trí thức Việt Nam phải tập trung vào phía Biển Đảo, nhằm làm giãn mỏng sự quan tâm-phản kháng tại Đất liền- nơi chủ yếu là chiến lược lâu dài mà họ cần đến! Vì thực tế, phần Biển Đảo thì Trung Cộng cậy sức mạnh đã cưỡng đoạt rồi!
Trong khi đó, về phía cầm quyền Việt Nam thì bị “ mắc bẫy” vì Dương Đông Kích Tây, và cúi đầu thua vì kế: Hư Trương Thanh Thế của Bắc Kinh. Nói khác đi, các nhà lãnh đạo đương thời Việt Nam đã sợ “ võ miệng” của Trung Cộng.
Quân Sự:
Trung Cộng hiểu rõ yếu tố tâm lý lo sợ chiến tranh của lãnh đạo Việt Nam , nên cố tình khoe khoang đặc tính hùng mạnh về quốc phòng qua nhiều lễ hội, hay tập trận trên biển, nhằm hù dọa và khơi gợi sự chạy đua vũ trang, và kết quả đã có,lãnh đạo Hà Nội cấp tốc ký đơn đặt hàng vũ khí từ Nga, Aán độ và Pháp. Nhưng Trung Cộng Minh Tri Cố Muội ( giả vờ không biết). Vì nắm rõ CSVN không đủ ngân sách quốc gia cho cuộc chạy đua bất cân xứng này, dù 5 hay 10 năm sau, mức độ hiện đại hóa quân đội Việt Nam vẫn ở chỉ số bách phân so với đại cường số của Trung Cộng.
Đây là môn võ cũ của Mỹ nhưng chiêu mới của Tàu, được rút ra từ bài học “ chiến tranh các vì sao” ( Star War) và “ Chiến lược phòng thủ lá chắn” ( Strategic Defense Innitiative), mà Hoa Kỳ làm ngã quỵ Liên Xô trên võ đài chính trị. Nay Trung Cộng “ học lóm ” để nhốt kỹ đồng chí đàn em trong cái bẫy sập của mình, và thế cờ đã gài đặt như vậy, thì không cho phép các nhà lãnh đạo Việt Nam dừng cuộc chơi tại đây, mà phải tiếp tục ..trong tiếng vổ tay “ trúng kế ” của bộ chính trị Bắc Kinh.
Kinh Tế:
Vì càng chạy đua vũ trang với Trung Cộng bằng các mặt hàng nặng vốn như Máy bay, Xe tăng, Tàu ngầm, Hỏa lực, thì Việt Nam càng mau kiệt quệ, trong khi tiền thặng dư cũng như ngân sách quốc gia quá ít ỏi. Vậy, khi Việt Nam bị kinh tế suy thoái, lạm phát mậu dịch, và khủng hoảng tài chánh hay chi phí quốc gia bị khiếm khuyết, thì chổ dựa dễ vay mượn nhất chính là Trung Cộng, vì muốn mượn bao nhiêu cũng được! Nhưng Việt Nam lấy cái gì để thế chấp??? Có phải là tài nguyên, đất đai, lãnh hải và khu du lịch..? Sự vay mượn này cũng là điều kiện tốt nhất để Trung Cộng tuồn đổ toàn bộ hàng hóa giả-độc, biến Việt Nam thành cái hố rác khổng lồ, làm lụn bại tê liệt ngành tiểu thủ công nghệ vốn là kế sinh nhai cho 50% dân số của quốc gia.
Điểm chết để sinh biến ra mọi vấn đề là ở đây.. ..Nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam và ban tham mưu đã cạn trí..không nhìn thấy!
Ngoại Giao:
Trung Cộng rất uyên thâm để xác định rằng, chỉ có mối quan hệ Việt-Mỹ mới làm họ lo ngại! Sự kiện ngày 30-3-2010, Đại sứ Hoa Kỳ ông Micheal Michalak đã cùng ký kết biên bản Hợp Tác Năng Lượng Hạt Nhân với Việt Nam. Tuy biên bản chỉ mang tính Ghi Nhớ, nhưng điểm đáng chú ý là việc ký kết này được thu nhỏ tại Hà Nội, và chỉ 12 ngày trước khi Nguyễn Tấn Dũng đến Mỹ để tham dự vấn đề hạt nhân, nghĩa là cả 2 quốc gia không muốn làm “rùm beng”; đó là dấu hiệu khá khôn khéo và quan trọng trong bước tiến quan hệ Việt-Mỹ, nếu xét theo chiến lược cho các bước kế tiếp lâu dài!
Nhưng dường như, các nhà hoạch định chính sách của Trung Cộng cũng đã “đánh hơi” được bài toán “nước đôi” của lãnh đạo Việt Nam, nên Trung Cộng nắm chặt con bài vũ khí hạt nhân Bắc Hàn, dù rằng, họ có một phần đồng tình cô lập Iran để lấy lòng Hoa Kỳ và thế giới, qua việc Hồ Cẩm Đào phút cuối quyết định tham dự vào ngày 12-13 tháng 4 năm 2010. Vì chế độ Bắc Hàn tồn tại hay không thì đang còn phụ thuộc quá lớn vào sự viện trợ của Trung Cộng. Cho nên hơn ai hết, nếu người Việt Nam am hiểu về lịch sử cận đại thì có thể suy luận hay hình dung rằng. Nếu lãnh đạo Trung Cộng “nói nhỏ một câu” với Hoa Kỳ là:
- “Vấn đề Biển Đông, chúng ta cùng bắt tay để kiếm ăn, còn vấn đề Bắc Hàn thì hãy để chúng tôi lo liệu. Nhưng Hoa Kỳ đừng đi sâu vào chuyện “làm ăn” của chúng tôi tại Việt Nam”!
Vậy, vì vấn đề an ninh nước Mỹ và an ninh Việt Nam, thì Quốc Hội và Tổng Thống Hoa Kỳ chọn gì???
Sự trả lời cho câu hỏi trên đã làm mất đi tác dụng của kế: Tá Thi Hoàn Hồn (mượn xác để hoàn hồn), mà các nhà lãnh đạo Việt Nam đang mượn sức Hoa Kỳ để cân bằng với Trung Cộng, sẽ không như ý hay hy vọng nhiều và sớm như mong đợi! Mà trái lại, nếu không cẩn thận với kế mượn xác này, thì coi chừng “bộ đội cụ Hồ” phải đi lượm xác “đồng chí”, vì Trung Cộng dạy cho bài học thứ 2.
Hay hiểu khác rằng, tăng cường quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ là đúng! Nhưng ngay vào lúc này, nếu lãnh đạo Việt Nam đặt hết hy vọng vào họ, thì khác nào chú Bờm nằm mơ chiếc kẹo trong bàn tay của Phú ông đầy tính toán!
Còn lại, những nỗ lực ngoại giao ở khối Asia sẽ hoài công vô ích! Vì điểm quan trọng mà bộ chính trị Hà Nội không nghĩ đến, là chính họ đã tạo ra sự mâu thuẫn trầm trọng, khiến các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia trong khu vực theo dõi và nhận ra. Mâu thuẫn đó là, giới cầm quyền Việt Nam ngấm ngầm tạo liên minh chống đở Trung Cộng, kêu gọi quốc tế hóa Biển Đông. Nhưng đồng thời, cũng là chính họ thỏa thuận ký kết những hiệp ước-hợp đồng, để cho Trung Cộng trá hình bành trướng trên Đất Liền qua các vụ Bauxite Tây Nguyên, hay cho thuê rừng đầu nguồn..vv..vv
TỔNG KẾT NHẬN ĐỊNH
Căn cứ vào thực tế mà phân tích tỷ mỷ như đã nêu, thì tạm thời kết luận là. Kế hoạch lấn chiếm Việt Nam được Trung Cộng tiến hành theo mô thuật “ mưu ma quỷ kế ” , và trình tự từng giai đoạn của các chiến thuật này như một Liên Hoàn Kế được ghép lại rồi cấu trúc thành: Chiến lược lâu dài
Hay có thể hiểu rằng, dùng mưu kế để chiếm đoạt thì dễ dàng hơn, ít binh phí hơn, nhưng sở hữu lâu dài và chắc chắn hơn! Bằng chứng, dù chế độ cộng sản Việt Nam sụp đổ, thay thế bởi thể chế dân chủ thì các văn kiện khế ước hợp đồng vẫn còn hữu lực, và chiến lược vẫn còn thực hiện. Nhưng nếu, chiếm đoạt Việt Nam bằng chiến tranh thì không hữu lý, nếu có, chỉ thỏa đạt trong giai đoạn nhất thời
Cao thâm của viễn mưu chính là chổ này!
Trong khi đó, ngay từ ban đầu, giới đương quyền Việt Nam đã không xác định được chiến lược mang tính mưu lược của đối phương, nên không tìm ra phương hướng, khi bị dư luận lên án thì cuống cuồng phản ứng mang tính khôn nhà dại chợ, và càng hấp tấp thì càng vướng vào “lưới bẫy” của Trung Cộng.
Hay luận cách khác để thấy rõ hơn, là bộ máy cầm quyền của CSVN không có triết phu nào tiên kiến được viễn mưu của Trung Cộng, nên dẫn đến phạm phải sai lầm trầm trọng trong nguyên tắc chính trị và quân sự, bởi: Khi chiến thuật sai cùng chiến lược sai thì bao giờ cũng tạo cho đối phương mau thắng lợi, và đưa quốc gia vào vòng đại họa trường tồn dưới đây:
ẢNH HƯỞNG VÀ HẬU QUẢ
Cũng từ sai lầm trên, cho thấy tình hình Việt Nam hiện nay đã rất khác so với 1-2 năm trước, là chỉ có vấn đề Biển Đông. Nhưng nay, các nhà lãnh đạo Việt Nam tự đặt chính mình cùng tổ quốc và dân tộc trước 2 mặt trận, nếu cùng xét theo hai phương diện quân sự và chính trị, tức là:
1) Mặt trận Biển-Đảo
2) Mặt trận Đất Liền.
Vậy, trong 2 mặt trận vừa nêu, thì đã hình dung ra mặt trận nào nên quan tâm và củng cố hơn, trước, ưu tiên?
Nói về sự kiện Biển Đảo, thì việc thiết lập và đệ trình hồ sơ lãnh hải lên Liên Hiệp Quốc là đúng, nên làm, và đã làm rồi! Nhưng nếu xét, mặt nào là có tầm mức quan trọng và khẩn thiết cần bảo vệ nhất hiện nay, thì sự vụ Biển Đảo không nên đặt nặng quá vấn đề, vì nó thuộc về quốc tế !
Hoặc thậm chí là, giới lãnh đạo Hà Nội nên thông minh hiểu rằng. Cái Lưỡi Bò mà Trung Cộng tự ý vẻ ra chỉ là tham vọng, chứ bất thể thành hiện thực như cái ao nhà của họ, kể cả trên chiến lược hay pháp lý!
Vì sao?
Bởi rằng, đây là hải lộ “huyết mạch” của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ và các nước đồng minh của siêu cường này, cũng như thế giới, Và ngay cả, xét theo vị trí địa lý bị bịt kín của Trung công, thì 75% lượng dầu thô khí đốt hết sức cần thiết, cùng 70% hàng xuất- nhập cảng của họ đều nhất lộ phải di chuyển qua hải tuyến này. Cho nên, hôm nay hay dài lâu, thì Trung Cộng cũng không muốn sự tranh chấp bằng hải chiến tại vùng “nhạy cảm” đó.
Dẫu bằng, họ muốn độc quyền thì Hoa Kỳ và quốc tế chịu sao???
Hoặc, nếu Việt Nam thắng kiện thì liệu Trung Cộng có làm lễ bàn giao Hoàng Sa-Trường Sa không???
Nói như thế, nhằm nhấn mạnh bằng một lý luận giản dị rằng, Đất Liền – mặt trận thứ 2, tức là căn nhà Việt Nam hình chữ S cũng đang bị người Tàu đe dọa từng ngày. Nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục tham nhũng qua việc thuê-bán nội địa, và không ưu tiên tìm biện pháp bảo vệ mà lại đi lo cái hồ nước sau hè nhà..!
Vậy, vài năm sau, khi dân Tàu tràn ngập xuống chiếm căn nhà quý báu kia, thì 90 Triệu người có thể làm “ thuyền nhân” bơi ra tỵ nạn ở 2 cái cồn nước sau hè nhà.. được sao???
Hiện thực đen tối của quốc gia Việt Nam là như thế đó, ắt rằng, sẽ có nhiều người đặt ra câu hỏi là: Nếu giả định, ngay bây giờ các nhà lãnh đạo Việt Nam có hướng tích cựu nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng, thì liệu có biện pháp tạm thời nào để chống đở, ít ra, là để bảo vệ cho ngư dân được an toàn tính mạng trên lãnh hải Việt Nam???
Câu hỏi này khó như lên Trời mà ngay cả sư phụ của Tôn Tử thần tiên sống lại, cũng không tìm được trong 36 Kế do đệ tử viết ra thì có kế nào hay mà vận dụng!
Nhưng có lẽ, đây cũng chính là dấu hỏi mà các nhà lãnh đạo Việt Nam đang loay hoay không tìm ra câu trả trả lời! Vì hơn ai hết, họ sẽ tự nhận ra tham vọng cá nhân đã biến chính mình thành những “con chốt thí ” trên bàn cờ chiến lược, mà ngõ sinh lộ để ra hay cửa tử đi vào đều do Trung Cộng nắm chìa khóa!
Cho nên, nhằm giải quyết toàn bộ mọi vấn đề để quốc gia tránh được thảm nạn Hán hóa của Trung Cộng. Thì liệu rằng, các tay lãnh đạo CSVN có đủ bản lỉnh chính trị như cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, để “chế tạo” ra cái Kế thứ 37, mà tạm gọi là kế: Tự Biên Tự Diễn..???
Hay nói thẳng ra là: Nổ súng trước, như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từng hạ lệnh cho Hải quân VNCH trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974.
Nhưng!
Nổ súng trong hoàn cảnh nào? Nổ súng trên đất liền hay biển đảo thì có lợi? Và, nếu Việt Nam vì TIÊN PHÁT CHẾ NHÂN mà khai hỏa, thì cuộc chiến Việt-Trung có bùng nổ không?
Đặt một loại câu hỏi như vẽ cảnh màn trời chiếu đất sắp hiện ra đối với ai lo sợ chiến tranh, nhất là mấy “ngài” trong bộ chính trị CSVN nghe qua cũng phải toát mồ hôi hột..!
Nhưng không! Rất nhẹ nhàng và êm ái mà có thể bảo quốc an dân! Chính những tiếng súng này sẽ làm thay đổi cho cục diện chính trị Việt Nam.
Vì sao giả định trên như một khẳng định???
NHẬN XÉT THẾ LỢI VIỆT NAM
Có rất nhiều lý do để xác quyết cho khẳng định trên, nhưng chỉ xin đưa ra các điểm căn bản để xét đoán rằng: Dùng vũ lực với Việt Nam là không có trong kế hoạch dù ngắn hay dài của Trung Cộng, vì là:
1) Kinh tế tại quốc nội Trung Cộng đang trong chiều hướng phát triển quá cao, đang thu hút nhiều đại công ty nước ngoài có ký kết hợp đồng tại đây, nhất là Hoa Kỳ và đồng minh của siêu cường này. Trong khi đó, các đại công ty của Trung Cộng cũng đang phát triển lan rộng khắp thế giới. Do đó, Trung Cộng không dại gì lâm chiến để tự mình làm sụp đổ hệ thống chứng khoán đang thu hút nhiều khách hàng trên toàn cầu, cũng như lòng tin của các đối tác thương mại đang và sẽ đầu tư vào quốc gia có sức mãi lực này. Đây chính là thế “triệt buộc” mà điểm đầu tiên bắt Trung Cộng phải nghĩ tới khi đặt vấn đề chiến tranh với quốc gia láng giềng!
2) Tương đương về quyền lợi kinh tế nói trên, nếu Trung Cộng giao chiến với Việt Nam, dù là một phát súng bắn trả lại thì xem như mối ngoại giao bị gảy đổ, kéo theo các hợp đồng kinh tế mà phần lớn các kế hoạch khai thác quặng mỏ – thuê rừng trong ý đồ Hán Hóa của Trung Cộng cũng phải trì trệ dài hạn, có khi phải chấm dứt. Hay, lý lẽ cách khác, là kế hoạch Nam tiến của họ bị đổ vỡ. Từ đó có thể hiểu rằng, phát súng khai hỏa cảnh cáo và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam hôm nay, hoàn toàn khác xa với tiếng súng chủ động của Trung Cộng vào sáng ngày 17-2-1979, mà lịch sử cận đại của họ đặt tên cho cuộc chiến đó là Đối Việt Tự Vệ Hoàn Kích Chiến. Vì khi đó quyền lợi của họ không có gì tại Việt Nam, ngoại trừ chiến lược quốc tế nhưng đã hết công hiệu bởi cuộc chiến đã kết thúc vào năm 1975, trái lại, Trung Cộng phải chịu gánh nặng viện trợ quá nhiều và quá lâu với Miền Bắc, sau đó thấy đàn em phản bội theo Liên Xô nên dạy cho một bài học. Và Đặng Tiểu Bình cũng xác định được cuộc chiến đó không lợi lộc gì nên giới hạn về mặt thời gian. Quả thật kết quả mang lại là: Chó chết thì Mèo cũng bể bụng!
3) Một điểm hiện rõ nhưng ít ai để ý, sau sự thành công của cách mạng năm 1949 của Mao Trạch Đông, tuy dứt điểm được các triều đại vua chúa phong kiến, nhưng nền ngoại giao của Trung Cộng vẫn theo lối “ vỏ ốc”, tính tự cao tự đại đã tự phong bế lấy vị trí địa lý chính trị của họ, nên Trung Cộng không có đồng minh, không có bạn hữu, mà chủ yếu là kẻ thù. Khi Đặng Tiểu Bình phát hiện và mở cửa thì đã muộn, đất nước Trung Hoa đã bị vây kín 3 mặt, bởi, phía Bắc là nước Nga hùng mạnh có nguyên tử, phía Tây là Aán Độ cũng có hạt nhân, phía Đông có 2 nước Triều Tiên, phần Bắc Hàn tuy là đồng chí nhưng cũng phải dè chừng vì họ có Bom nguyên tử, còn phần Nam Hàn thì bị căn cứ quân sự Hoa Kỳ cản đường, nên duy nhất, Trung Cộng chỉ còn hướng Nam là Việt Nam, nơi có thể hiếp đáp để giải quyết nạn nhân mãn của họ!
Rất tiếc, các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã không nhìn ra được sự yếu thế của đàn anh, để khi con Sư tử phương Bắc rống lên 1 tiếng dọa..thì con Rồng phương Nam cũng phải gầm lên 2 tiếng, có thế, thiên địa sẽ dịu êm, còn im lặng thì thú dữ sẽ ăn thịt ngay. Bao trang sử cổ của xứ Việt từng minh chứng điều đó!
Cũng từ yếu điểm trên, nếu Trung Cộng giao chiến với Việt Nam nghĩa là bắt ép đàn em theo đối thủ Hoa Kỳ, điều này khác nào họ tự động cô lập và làm yếu hơn thế chiến lược của mình.
4) Trung Cộng không có một lý do gì để chiếm đóng Việt Nam trên Đất liền, dù là ngắn ngày. Còn Hoàng Sa- Trường Sa thì họ đã chiếm rồi! Nhưng chính phát súng khai hỏa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam vào lúc này, thì có thể Trung Cộng sẽ lui về lại kế: Phù Để Trừu Tân, nghĩa là (bớt lửa dưới nồi), tạm hiểu là không nên ép Việt Nam quá, và dĩ nhiên, Trung Cộng sẽ đưa ra giải pháp có lợi hỗ tương mà lần này sẽ thành thật chứ không lừa lọc, dối trá, ỷ mạnh để độc chiếm quyền lợi tại Biển Đông. Vì họ thừa hiểu rằng, sự phát triển kinh tế mang tính “bùng nổ” của họ không tạo sự cảm tình với thế giới, nên, nếu họ mở cuộc chiến tranh thì vô tình chính họ đưa 2 tiếng Việt Nam đến với sự cảm tình của cộng đồng quốc tế, và Việt Nam theo con đường dân chủ thì họ sẽ tổn thất về mọi mặt tại quốc gia phía Nam quan trọng này.
BIỆN PHÁP TẠM THỜI (có lẽ) CŨNG LÀ DUY NHẤT
Đối chiếu và lượng định mọi tình hình khách quan và đặc tính chủ quan chính trị trong chiến lược của Trung Cộng, cũng như quá nhiều quyền lợi thiết thực hiện có của họ tại Việt Nam, có thể hình dung như một bàn cờ đã gài đặt mọi góc cạnh hết sức cao thâm và bí hiểm! Tuy với thế trận hiểm nghèo như thế; nhưng không có nghĩa là Việt Nam đã “cạn nước”.. mà không có cách khai cờ phá trận để biến bại thành: Chiếu Tướng!
Bởi thế, Nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam nào, có chí hướng bảo vệ chủ quyền quốc gia thì không nên ngồi đó mà suy ngẫm chịu thua, vì càng kéo dài thì bước tiến của Trung Cộng càng lấn sâu vào nội địa!
Năm 2010 có nhiều yếu tố thuận lợi trong chính trị, nhất là mặt tác động quốc tế rất hội đủ điều kiện tốt để chặn đứng âm mưu của Trung Cộng, dựa theo nguyên tắc bất di trong binh pháp là khi bị kìm hãm bao vây, thì phải tạo biến để khai thông mà biện pháp hữu lực và hữu lý nhất, là:
Quân Sự và An Ninh:
Thay vì, đặt nhiều hy vọng vào ngoại giao nhằm vận động liên minh quốc phòng trong mục đích xây dựng và ổn định khu vực, mà kết quả chỉ là “tốn nác, rác nhà”.
Thì nay, Việt Nam nên lợi dụng ngay vào lúc là Chủ tịch luân phiên của khối Asia. Để huy động toàn bộ lực lượng Không quân – Hải Quân kết hợp cùng Bộ binh, lên kế hoạch và đơn phương triển khai tập trận tại các vùng duyên hải trọng yếu. (xin nhấn mạnh là: Đơn phương tập trận)
Tại sao phải đơn phương tập trận ngay vào lúc này???
Bất ngờ cho Trung Cộng chính là điểm này mà trong 37 năm qua, sau khi kết thúc cuộc chiến, quân đội Cộng sản Việt Nam im hơi lặng tiếng không thao dợt. Nhưng nay “đột xuất”..!
Chính những tiếng pháo rơi đạn nổ.. Bùm.. Pằng.. tập trận trên biển, là tín hiệu gởi đến Trung Cộng như một sự tự tôn của dân tộc Việt Nam thách thức rằng:
- “Tôi chẳng sợ gì anh một chút nào, nếu anh ép-đánh tôi, anh sẽ mất sạch..”!
Nhưng, những tiếng súng “quậy sôi ” Biển Đông này cũng là thông điệp gởi đến các quốc gia trong khu vực, thay vì, nói trên bàn hội nghị sẽ không bằng hành động, vì lịch sử thế giới chưa chứng minh có quốc gia tự do nào hỗ trợ quốc phòng cho một nước cộng sản lúc động binh! Dĩ nhiên, thoạt tiên, các quốc gia này không thích, có khi, họ sẽ phản đối qua ngoại giao, nhưng Biển Đông bị “hâm nóng” lên thì buộc lòng họ cũng phải tăng ngân sách quốc phòng, và tập trận, có khi đơn phương, rồi song phương, dẫn đến liên minh, và tất nhiên, các nước nước nhỏ yếu trong khu vực sẽ tự liên kết với Việt Nam, vì sự bành trướng của Trung Cộng là nỗi lo ngại chung!
Và, chính chiến thuật này mới đánh trúng huyệt đạo của Trung Cộng. Vì xưa nay, bản chất lãnh đạo từ cổ chí kim của họ luôn luôn bị nỗi ám ảnh lo sợ trong nội bộ, là các sắc tộc Hán-Mãn -Mông-Hồi-Tạng sẽ kết hợp vùng lên xé nát nước Trung Hoa ra từng mảng nhỏ. Còn bên ngoài, họ rất e ngại các quốc gia nhỏ khác liên kết chống lại, (tập hợp các nước nhỏ để đánh nước lớn, đó là Vương Đạo) đó cũng là một phần lý do cốt yếu mà Trung Cộng cương quyết lập trường đàm phán song phương, chứ không đa phương như các nhà lãnh đạo Hà nội mong muốn về vấn đề Biển Đông! Biết thế, thì Việt Nam nên dùng cây dao chiến thuật trên để thọc sâu ngoáy mạnh vào tử huyệt của đối phương.
Thứ nữa là, chiến thuật đơn phương tập trận này, không chỉ tạo được sự chú ý cho các nước trong khu vực, mà còn cuốn hút và tìm được thêm sự ủng hộ từ các quốc gia lớn mạnh trong vòng đai Thái Bình Dương. Nhưng đặc biệt, có hai siêu cường tuy không ra miệng khuyến khích, nhưng sẽ nhảy đầm vổ tay hoan hô.. ..Vì nhờ Việt Nam “ biết quậy”, nên họ “trúng mánh” qua việc bán vũ khí “đắt như Tôm tươi”, đó là Nga và Hoa Kỳ. Hiểu giản dị là như vậy!
Hay ngầm hiểu rằng, trong thế tiểu quốc gặp hoạn nạn như Việt Nam hiện thời, thì không sức mạnh nào có thể hóa giải mối bị bao vây này, bằng Hoa Kỳ. Cho nên, việc tập trận là một hình thức vừa gián tiếp vừa chủ động mời gọi siêu cường này “nhập cuộc” sớm hơn, trong tư cách là quốc gia lớn luôn có trách nhiệm ổn định hòa bình thế giới, do đó, các tay cầm quyền Việt Nam phải bỏ đi cái thói “ăn mày mà cao ngạo”, để hiểu rằng Việt Nam cần gấp Hoa Kỳ giúp đở, chứ quy luật này không bao giờ ngược lại trong hoàn cảnh hiện nay! (sau này thì khác nửa!)
A) Xét từ biện pháp tạm thời này, nếu ai đã từng dày công khảo cứu và hoàn thành Luận án sử ký nước Việt, thì sẽ thấy một điểm hiếm hoi từ thời có quốc hiệu Đại Việt ..đến nay, biết bao vị tiền nhân anh minh muốn đưa quốc gia vào quyền độc lập, nhưng vì xung đột quốc tế triền miên, tác động và ảnh hưởng vào Việt Nam mà quốc vọng bất thành! Nhưng chính ngay thời điểm này, vâng; đúng vào thời điểm “ngàn năm có Một” này! Nếu nhà lãnh đạo Việt Nam nào có tư duy giỏi, bình tỉnh và khôn ngoan, thì sẽ an toàn đưa quốc gia vào thế chủ quyền độc lập (có thể là vĩnh viễn), theo kiểu mẫu thể chế chính trị dân chủ như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, với giai đoạn đầu, nhận sự bảo trợ của Hoa Kỳ qua quyền lợi hỗ tương.
B) Loại bỏ ngay các hình thức như Thủ tướng ban hành Nghị định về việc: cấp và kiểm tra giấy phép tàu thuyền đánh cá nước ngoài vào hành nghề trong lãnh hải Việt Nam, hay trang bị vũ khí theo sách lược nhân dân tự vệ, thật quá sức ngớ ngẫn và mỵ dân! Chính các Nghị định mang tính khờ khạo củagiới lãnh đạo bạc nhược hiện nay, tự nó đã chỉ rõ cho Trung Cộng thấy hạ sách yếu kém mưu lược, nên cường độ lấn át của họ tăng hơn! Mà thay vào đó, là phải huy động lực lượng Hải quân liên tiếp tuần tiểu trên vùng biển Việt Nam để bảo vệ cho ngư dân lao động trên ngư trường, sẵn sàng đối xử nhân đạo theo luật quốc tế đối với các “tàu lạ” khi gặp ách nước tai trời. Nhưng nghiêm minh cảnh cáo, nổ súng chỉ thiên, hoặc bắt ngay bất cứ tàu thuyền Trung Cộng hành nghề trên vùng biển quốc gia, cứng rắn xử phạt như họ đã từng xử phạt các ngư dân Việt Nam. (Nhưng rất tiếc giới lãnh đạo bạc nhược Hà nội đã không dám làm).
Và dù rằng, bộ chính trị Bắc Kinh rất bực mình trước các biện pháp này, nhưng đây là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia không hề gây hấn đụng chạm gì đến họ!
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nước bé thế yếu, lãnh đạo khờ khạo thì các biện pháp “ động binh ” nói trên, chỉ tác dụng nhãn tiền nhằm chặn đứng những hành động ngang ngược thô bạo lấy mạnh hiếp yếu của Trung Cộng đối với ngư dân.
Nhưng nếu các tay lãnh đạo Việt Nam không dùng biện pháp “cứng” để răn đe cảnh cáo, mà hoài công kéo dài tìm kiếm giải pháp “mềm”, thì kết quả chỉ là tạo lợi thế cho Trung Cộng tiếp tục dụng kế để thâu tóm thêm các cứ điểm quan trọng tại đất liền.
Và căn cứ vào một số sự kiện lịch sử từng xảy ra trên thế giới, nhất là đối với các quốc gia từng chịu sự chi phối chính trị của Trung Cộng, có thể đưa ra một tiên đoán cũng là sự cảnh báo với các nhà lãnh đạo Việt Nam rằng: Khi vào thời điểm khả dĩ làm chủ được tình hình, thì Trung Cộng không cần thiết đến chế độ CSVN tồn tại nữa hay không! Nếu cựu hay đương thời lãnh đạo Việt Nam nào có liên quan, cản trở đến chiến lược của họ, thì cục tình báo Hoa Nam sẽ “làm thịt” theo “đơn đặt hàng” bằng các hình thức thủ tiêu ám muội ..vv.v.v..! Muốn chứng minh cái họa sát thân này có hay không, thì các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể nhìn lại cục diện chính trị của Campuchia hay Darfur trước đây, tất cả các quốc gia này đều là “sản phẩm bảo trợ” của Trung Cộng, với những cuộc thảm sát kinh hoàng, nhưng kết cục lãnh đạo của các quốc gia này không bị Trung Cộng giết thì phải chịu sự trừng phạt như Pon Pot và đồng phạm! Riêng trường hợp Việt Nam thì kết quả đen tối nói trên càng xảy ra sớm hơn, vì đảng cộng sản đang lắm phái nhiều phe, nhất là … “phe Tàu, phe Mỹ”. Đặc biệt, khi chiến lược của Trung Cộng bị sự phản kháng mạnh mẽ từ dân chúng Việt Nam bằng những cuộc xuống đường biểu tình, thì Bắc Kinh sẽ càng gây rối loạn an ninh, tạo ra khủng hoảng xã hội càng nhiều theo kế: Sấn Hỏa Đả Kiếp (đốt lửa rồi theo lửa mà hành động), thì họ càng có lợi nhanh trong kết quả khống chế Việt Nam, bằng cách cậy quyền hay xin phép, để có cớ đưa quân đội vào bảo vệ Hoa kiều và tài sản các dự án kinh tế của họ. Nếu xảy ra như thế; khi đó các nhà lãnh đạo Việt Nam có dám “to gan” từ chối không? Đó là giả thuyết về thượng tầng.
Còn hạ tầng thì giả định như: Đất đai, thổ nhưỡng “mặt bằng” tại Hà Nội-Sài Gòn hiện nay rất đắt giá, nhưng Trung Cộng cho đặc vụ, tình báo tạo nên những hình thức “xã hội đen” xung đột hình sự Tàu-Việt đẫm máu, khiến dân bản xứ lo sợ bán tài sản di chuyển nơi khác. Các “đại gia” từ Trung Cộng bay qua mua lại theo kế: Du Long Chuyển Phượng, và thành lập các tụ điểm ăn chơi, lâu dần, sẽ thành một Bắc Kinh nhỏ, hay Tân Thượng Hải ngay giữa các đô thị lớn Việt Nam, và tuổi trẻ bị cuốn hút vào đó, và chơi bời càng nhiều thì càng mau quên tổ quốc. Như thế, xâm lăng kiểu này rất là hợp pháp mà chẳng tốn viên đạn nào!
Tại sao các nhà lãnh đạo Việt Nam không nghĩ ra, mà lại lo sợ đánh thua Trung Cộng?
KẾT LUẬN CŨNG LÀ TÂM BÚT CỦA TÁC GIẢ
Hơn 5 năm trước, người Việt Nam không nghe tiếng phá đá nổ mìn của công nhân Trung Cộng xây đập thủy điện trên thượng nguồn Mê Kông hay Sông Hồng, hoặc biết, nhưng cho là không quan trọng!
Nhưng hôm nay đây, người Việt hoảng hốt nhìn nhau tự hỏi rằng. Những nhánh sông thân quen cạn kiệt dòng nước, trơ đáy phơi bùn dưới trời hạn hán, tất cả đồng khô hồ cạn là vì đâu, do ai?
Nguyên thủ 4 quốc gia vùng hạ lưu Mê Kông liên tục họp hành, năn nỉ Trung Cộng mở đập xả nước để cứu đời sống người dân. Nhưng cho dẫu, lên án hay quỳ lạy thì hậu quả của dữ kiện đã trở thành quy luật Xin-Cho. Vì xét theo địa lý, Trung Cộng (có quyền) vô trách nhiệm đặt điều kiện: “Muốn cung cấp đầy đủ nước cho vùng hạ lưu thì phải trả cho họ cái gì? ..”.
Nêu lên hình ảnh “hấp hối” của vùng hạ du Mê Kông mà Việt Nam ở vào đoạn cuối “ung thư” để nhấn mạnh rằng, việc công nhân trá hình khai thác Bauxite Tây Nguyên, hay nơi thượng nguồn 10 tỉnh cho thuê rừng hôm nay, thì tự nó đã là một phần đất của Trung Cộng theo khế ước hợp đồng.
Những nhát cuốc xẻng để đào bới-cày xén bây giờ chỉ là công đoạn đầu tiên, cho một chủ trương Xin-Cho sẽ xảy ra trong tương lai ngay trên quê hương Việt Nam, và sự Xin-Cho này không chỉ áp đặt lên đầu người dân, mà thành phần đầu tiên phải chịu sự áp đặt này chính là nhóm “lãnh đạo quốc gia”, nếu muốn tồn tại!
Hay nói cách khác, là Việt Nam từ từ lệ thuộc và mất hẳn chủ quyền vì 2 nguyên tắc căn bản của kẻ đi xâm lăng, là: triệt tiêu dân trí và cướp nguồn lợi kinh tế thuộc của nước bị xâm lăng.
Tất cả các điểm nêu trên đều là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia. Việt Nam cầu khẩn Hoa Kỳ và quốc tế giúp đở được không? Có lẽ, câu trả lời là: Không.
Điều đó chứng minh rằng, dù thế giới chung sống từ hòa đến đâu, thì quy luật mạnh sống yếu chết vẫn muôn đời tồn tại trong chủ trương chính trị và quân sự, và hơn ai hết, người lãnh đạo (bất luận ở thời điểm nào) phải thấu triệt được sinh mệnh của tổ quốc và dân tộc, đặc biệt là lãnh đạo đương thời Việt Nam!
Hiểm họa vừa nêu trên, là bài học chính trị được viết bằng máu dành cho những ai là nguyên thủ quốc gia sau này, phải luôn luôn biết và nhớ về tầm quan trọng bởi vị trí địa lý chính trị của Việt Nam rất khác với các quốc gia trên thế giới. Vì đặc tính riêng biệt này, nên dù, quốc gia trải qua thể chế Cộng hòa hay Cộng sản, thì 2 yêu cầu căn bản phải được ưu tiên lên hàng đầu, đó là Quốc Phòng và Lãnh Đạo đi kèm với một chính sách Ngoại Giao “chừng mực-biết người biết ta”. Nhất là đối với quốc gia láng giềng Phương Bắc thì nhất định và cương quyết để không thể và không bao giờ phó thác số mệnh dân tộc vào nền ngoại giao: “Hữu Nghị và Hợp Tác”, cụm từ này chỉ ngụy hình cho những âm mưu tráo trở phi chính nghĩa.
Khi có được những yếu tố cần thiết như đã nói, thì mới đứng vững được trước một quốc gia khổng lồ ngạo ngược như Trung Hoa.
Cũng vì địa lý thiên ý và sự mất còn của mảnh đất này, mà trải dài hơn 900 năm từ 939 đến 1840, bao thế hệ tiên công phải kiên gan cố sức chống đở với 7 cuộc ngoại xâm (cận đại), 2 lần nhà Tống, 3 lần nhà Nguyên, 1 lần nhà Minh, 1 lần nhà Thanh, nhưng dù Trung Hoa hùng mạnh đến đâu thì kết quả vẫn là thảm bại.
Qua sự dồn dập liên tiếp của các cuộc chiến tranh cổ đại đó, minh chứng một điểm rõ ràng, là các vua chúa của bất cứ triều đại phương Bắc nào, cũng luôn luôn có cùng một tham vọng và đeo đuổi cùng một chủ trương lấn chiếm Việt Nam, tư tưởng ngạo mạn: Thuận Ngã Giả Xương, Nghịch Ngã Giả Vong (lạy ta thì sống, chống ta thì chết), vẫn tồn tại với giới lãnh đạo Trung Cộng ngày nay, và mãi mãi.
Rất bất hạnh cũng là đáng tiếc! Vì hơn ai hết, giới đương quyền Việt Nam rất hội đủ điều kiện để đối đầu với nạn Hán xâm hôm nay. Bởi phần lớn, họ được sinh ra hay trưởng thành tại miền Bắc, mảnh đất được thừa tự truyền thống quật cường của tiền nhân, thực tế hơn, các nhà “lãnh đạo” này từng được đào tạo và thành công trong việc cướp, dựng và giữ chế độ bằng một hệ thống gian manh, lọc lừa và dối trá. Chính cả 2 yếu tố Truyền thống và Hệ thống mà họ từng được hấp thụ và trui rèn này, rất khả dĩ, giúp cho họ đầy đủ mưu mô để chống lại một đối thủ nhiều mưu ma chước quỷ, giúp cho Việt Nam vượt lên cơn can qua đại họa này, tiếc thay, chính họ đồng cam tâm bán nước, đi ngược lại nguyện vọng dân tộc và sự trường tồn của quốc gia.
Vậy, có nên để chế độ này tồn tại nữa không???
Hay nói đúng hơn, muốn tổ quốc Việt Nam được trường tồn cùng Việt Tộc, thì chẳng có gì hy vọng vào sự cạn trí của nhóm lãnh đạo đương thời, hay ê kíp mới sau đại hội thứ 11 của đảng CSVN. Mà trong tình thế cấp bách hiện nay, Việt Nam cần phải có một chế độ “dân chủ” để tìm được những khuôn mặt lãnh đạo, mà ít ra, có được bản lĩnh chính trị độc lập như… Ngô Đình Diệm, có tư duy sâu sắc và tiên kiến như… Ngô Đình Nhu, có tính cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia như… Nguyễn Văn Thiệu, cũng nhờ mệnh lệnh của ông cùng tiếng súng chống ngoại xâm của lực lượng Hải quân VNCH năm 1974, hay như tiếng súng của Hải quân Bộ đội năm 1988. Tinh thần bất khuất và sự nằm xuống của con dân nước Việt hôm qua, chính là bằng chứng hùng hồn cho lớp người hôm nay, hay mai hậu cất cao tiếng nói với thế giới rằng: HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM.
Vậy, tiếng súng nằm trong biện pháp vừa nêu trên, cũng nhằm bảo vệ ngư dân Việt Nam, nhằm thể hiện tính chủ quyền-nội bộ của một quốc thể, thì hà cớ chi các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải lo sợ rụt rè!?
Rất có thể! Bài viết này đã vượt ra ngoài vị trí Tác giả, và tính “vô tư ” của một bài Báo, nên ắt rằng, Tác giả sẽ bị cho là Diều Hâu hiếu chiến, hay... đôi điều gì đó!
Tuy nhiên, dù dưới mọi biên độ của quan điểm hay chính kiến nào; thì tâm tình và suy nghĩ độc lập của người viết rất bình dị như nông dân Việt Nam rằng:Quốc-Dân Việt Nam là vạn đại!
Vui nào hơn, khi nhận được sự cảm thông thì vãn sinh xin tha thiết thọ ơn sâu-dày!
Trân trọng xin lỗi bạn đọc “tâm đắc” của Tác giả, vì bài này dài nhưng không thể chia đôi.
Kính ái gởi lời chào Việt Nam đến toàn thể quý vị.
NGUYỄN DUY THÀNH
---------------
No comments:
Post a Comment