Nhà Báo Việt Thường

Nhà Báo Việt Thường

Tìm kiếm bài Blog than huu cua Nha Bao Việt Thường xin gõ chữ vào đây

Monday, June 17, 2013

Liên thành- tố cáo âm mưu Võ Văn Ái và bọn ma tăng xóa sổ VNCH

LTS- Âm mưu của Võ Văn Ái và tập đoàn việt gian, ma tăng của GHPGVNTN xóa sổ VNCH, QLVNCH từ thập niên 1963 cho đến 2013..bị vạch trần bởi Ông Liên Thành , tác giả Biến Động Miền Trung




....








Đây là những bằng chứng về tội ác của Võ Văn Ái gia nhâp tập đoàn CS Âu châu hoan hô Đại Việt Gian Hồ Chí Minh, treo cờ bọn xâm lược MTGPMN. Thời điểm của thăng 6 năm 2013 Võ Văn Ái tiếp tục dùng Phật giáo để xóa sổ toàn bộ VNCH qua bài bản Thích Quảng Đức tự thiêu vì đạo pháp. Chúng cố tình dấu nhẹm tài liệu, hình ảnh  bọn ma tăng chích độc dược và đổ xăng thiêu đốt đồng đạo của chúng là Thích Quảng Đức. 
Qua hành động này , tập đoàn việt gian CS tạc hình tượng "bồ tát" Thích Quảng Đức để ghi thành tích chiến công bọn ma tăng " đồng hành với chúng". 
Cho dù chúng cố tình bôi xóa sự thật, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Việt gian Võ Văn Ái và những tên ác tăng, ma tăng núp trong Phật giáo sẽ trả lời cho tội ác của chúng gây nên trong suốt chiều dài lịch sử từ thập niên 1960's cho đến nay.
 Trân trọng

Sent: Sunday, June 16, 2013 12:12 AM
Subject: Thư của cựu Cảnh Sát Trưởng BCH/Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, Tỉnh Thừa Thiên-Huế, Thiếu Tá Liên Thành gởi: Tên Đại Việt gian Võ Văn Ái và Tập đoàn lừa đảo PGVNTN

Thư của cựu Cảnh Sát Trưởng BCH/Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, Tỉnh Thừa Thiên-Huế, Thiếu Tá Liên Thành gởi: Tên Đại Việt gian Võ Văn Ái và Các Sư Thích Quảng Độ, Thích Huyền Việt, Thích Giác Đẳng, Thích Như Đạt, Thích Viên Lý, và Thích Chánh Lạc
________________
Nam California, USA
Ngày 15 tháng 6 năm 2013

Thưa quý vị,

Đáp lời kêu gọi của Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa vào các ngày 7, 14, và 15.6.2013 về việc hãy lên tiếng 
“giành lại sự thật lịch sử cho thế hệ sau” mà tập đoàn lừa đảo PGVNTN của các ông, có tên ở trên, đang xuyên tạc và bóp méo sự thật một cách trắng trợn và bỉ ổi. Năm điều “nguyện vọng của Phật giáo” mà tên đại việt gian, đại nói láo, đại phản chiến, đại bịp, đại lưu manh Võ văn Ái đưa ra trong bài thuyết trình của y vào ngày 9.6.2013 tại chùa Pháp Luân để đấu tố Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là hoàn toàn vu khống, bóp méo sự thật.

  

Tại Việt Nam - Cộng sản tổ chức rầm rộ "50 năm bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân"
Tại Việt Nam - Tấm bia cộng sản ca tụng Thích Quảng Đức đóng góp cho Việt cộng và đồng thời đấu tố chính phủ Ngô Đình Diệm "tàn sát dã man đồng bào yêu nước" (?!)http://phatgiao.org.vn/phat-su-dia-phuong/201305/Ha-Noi-Chu-Ton-duc-niem-huong-tai-Bao-thap-Bo-tat-Thich-Quang-duc-o-chua-Hoe-Nhai-11002/

Tại Mỹ - Thích Giác Đẳng khai mạc Lễ Kỷ niệm 50 Năm Bồ tát Thích Quảng Đức với cái gọi là vị pháp thiêu thân và cùng Võ Văn Ái hội luận đấu tố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và VNCH

Xin hỏi đồng bào rằng, giữa tài liệu cuộc điều tra của Liên Hiệp Quốc về việc Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chính phủ Đệ I VNCH có đàn áp Phật giáo hay không, và tài liệu của cộng sản và PGVNTN mà tên Võ Văn Ái trích dẫn ra thì tài liệu nào có giá trị hơn?

Xin hỏi đồng bào rằng, một tên đã từng trốn lính, từng cùng với đám phản chiến ngoại quốc yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa để trói tay và cắt mạch máu VNCH, từng vu khống cho chính phủ VNCH và quân đội đồng minh dội bom giết hại mấy trăm ngàn dân làng, từng tuyên bố với thế giới rằng chính phủ VNCH“không đại diện cho nhân dân miền Nam” thì thử hỏi những lời lẽ của tên đại việt gian, đại nói láo, đại phản chiến, đại bịp, đại lưu manh này có tin được hay không?

Xin hỏi đồng bào rằng tập đoàn lừa đảo PGVNTN ngày đêm ra rả tuyên bố “thề chiến đấu chống VNCH đến giọt máu và hơi thở cuối cùng”, sỉ nhục Quân lực VNCH là “lính đánh thuê”, “Mỹ nuôi”… thì tập đoàn lừa đảo này đồng hành cùng cộng sản hay không đồng hành cùng cộng sản?


Tên đại việt gian, đại nói láo, đại phản chiến, đại bịp, đại lưu manh Võ Văn Áivà tập đoàn lừa đảo PGVNTN chớ có giở trò ngụy biện rằng các ông chiến đấu chống VNCH là "vì đạo pháp và dân tộc”. Nhớ cho rõ: Trong trận chiến Quốc – Cộng này, một là đứng bên này, hai là đứng bên kia. Hôm nay, ngay tại hải ngoại này, các ông dám công khai lập lại các lời lẽ và giọng điệu vu khống của cộng sản để đấu tố VNCH thì đích thị các ông đã tự lột cái mặt nạ việt gian cộng sản của các ông ra trước công luận rồi!

Sau đây là sự phản bác chính thức về cái gọi là “5 nguyện vọng của Phật giáo đưa ra trong bản Tuyên ngôn ngày 10/5/1963 tại chùa Từ Đàm - Huế” và Phúc trình cuộc điều tra chính thức của Liên Hiệp Quốc về lời tố cáo “Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đàn áp Phật giáo”:
Chứng minh thứ 1: 5 NGUYỆN VỌNG CỦA PHẬT GIÁO ĐƯA RA TRONG BẢN TUYÊN NGÔN NGÀY 10/5/1963 TẠI CHÙA TỪ ĐÀM-HUẾ LÀ CÓ PHẢI LÀ TRÒ LỪA ĐẢO HAY KHÔNG?


1)- Yêu cầu Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa thâu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ giáo kỳ của Phật Giáo
Yêu cầu tên đại việt gian Võ văn Ái cũng như tập đoàn lừa đảo PGVNTN trưng ra bất kỳ văn thư nào chứng minh rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm hoặc Chính phủ VNCH cấm treo cờ Phật giáo? Trên thực tế, độc nhất chỉ có văn thư giải thích việc treo cờ Phật giáo phải như thế nào: Cờ tôn giáo phải nhỏ hơn và treo thấp hơn cờ quốc gia. Sự thật thì chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm chưa bao giờ ban hành lệnh cấm treo cờ tôn giáo. Thông tư của chính phủ gởi các nơi chỉ khuyến cáo các tôn giáo thi hành nghiêm chỉnh thể thức treo cờ đã được chính phủ ban hành từ những năm trước mà thôi. Ngay khi xẩy ra vụ treo cờ ở Huế, Tổng Thống đã mời ông Mai Thọ Truyền Chủ Tịch Hội Phật Giáo và đại diện tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn đến họp tại dinh Gia Long, các ông đã đồng ý với chính quyền về phương thức treo cờ tôn giáo:Cờ Tôn giáo khi treo chung với cờ Quốc Gia phải nhỏ hơn. Như vậy yêu cầu nầy xem như đã được giải quyết xong.

2)- Yêu cầu Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa bãi bỏ Dụ số 10 để Phật Giáo được hưởng một chế độ đặc biệt như các hội truyền giáo Thiên Chúa.
Dụ số 10 là của Vua Bảo Đại ban hành vào ngày 6/8/1950. Ông Bộ Trưởng bộ Nội Vụ của chính phủ Đệ I Việt Nam Cộng Hòa Bùi văn Lương đã giải thích như sau: Theo Hiến Pháp VNCH, sự tu chính luật phải do Quốc Hội đưa ra. Tóm lại việc tu chính một Dụ phải có hai điều kiện:

1- Xét thấy rằng có nhu cầu phải tu chính. 

2- Phải có nhu cầu xuất phát từ dân chúng. Trong cả hai nhiệm kỳ quốc hội mà đa số đều là Phật Tử đều không đưa ra yêu cầu tu chính Dụ số 10, thế thì tại sao Phật Giáo Ấn Quang lại đổ tội cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Đổ tội cho Tổng Thống một việc mà hiến pháp quy định không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của ông, như vậy những kẻ đã đổ tội cho ông có mưu đồ gì, nhất là khi những kẻ đó lại khoác trên mình cái áo của Phật? Trong trường hợp này, rõ ràng Phật là vũ khí để Phật Giáo Ấn Quang tức Việt Nam Thống Nhất dùng để đẻ ra tội cho bất cứ ai mà đám này muốn triệt hạ.

- Xét về điểm số 1: Cho đến khi có vụ Phật giáo xẩy ra, đã không có nhu cầu tu chính Dụ số 10. Mặc dầu văn kiện kiểm soát các hội rất chặt chẽ và gắt gao, nhưng chính phủ VNCH không hề áp dụng những điều kiện đó, mà ngược lại lại rất rộng rãi cho tất cả các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo.

Có một điều khoản trong Dụ, ví dụ như điều kiện buộc phải đăng ký với Bộ Nội Vụ tên những thành viên của chùa, Ủy ban, hay Hội Phật Giáo, mà điều này ai cũng thấy là rất cần thiết để đối phó với cộng sản, thì chính phủ đều bỏ qua, đặc biệt ở các tỉnh. Theo ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi văn Lương thì trước 1960 và sau 1960 chính phủ đều không thi hành Dụ số 10 đối với Phật giáo, ngay chính ông ta cũng không kiểm tra. Mãi đến năm 1963 khi xảy ra vụ Phật giáo thì ông Bộ Trưởng Bùi văn Lương mới mở hồ sơ ra xem xét, mới thấy rằng đã từ lâu, 1954 đến 1963 chính phủ đã không hề áp dụng Dụ Số 10.

- Xét về điểm số 2: Chính Phủ không hề và chưa bao giờ có yêu cầu, thư tín gì từ phía dân chúng đòi hỏi tu chính Dụ số 10. Từ ngày 16/6/1963 sau khi thỏa hiệp với phái đoàn Phật Giáo, đích thân chính phủ đã đưa vấn đề Dụ số 10 ra Quốc Hội và đã cử một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu tu chính Du số 10. Trong khi đó chính phủ cũng đã chính thức tuyên bố ngưng áp dụng Dụ số 10, cho dù chính phủ đã không hề áp dụng từ lâu.

Trong ngày 26/10/1955 Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước tạm thời có câu: “Luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên”, Dụ số 10 nằm trong số các luật lệ hiện hành nên đương nhiên là tạm giữ.

Sau đảo Chánh, ngày 4/11/1963, Trung Tướng Dương văn Minh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng khi tuyên bố Hiến Chương tạm thời số 1 cũng có câu “Các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì”, như vậy, ngay cả với chính quyền Dương Văn Minh thì Dụ số 10 vẫn không hề bị hủy bỏ. Chính phủ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, và sau nầy là chính phủ Đệ II cộng Hòa vẫn tham chiếu Dụ số 10 để làm những Nghị Định hay Sắc Luật để phê chuẩn bản Hiến Chương Phật giáo sau nầy. Ngay cả cho đến ngày 30/4/1975, Dụ số 10 vẫn không hề bị hủy bỏ. 

Như đã biết thủ tục pháp lý để hủy bỏ một Dụ không phải là dễ, và không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của hành pháp. Thích Trí Quang đổ tội cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm kỳ thị Phật giáo qua vấn đề Dụ số 10 là hoàn toàn cả vú để lấp miệng em, tuyên truyền lường gạt tín đồ nhẹ dạ không hiểu biết gì về luật pháp và hiến pháp quốc gia.

3)- Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật Giáo.
Không hề có tình trạng khủng bố bắt bớ tín đồ Phật giáo, mà chi có việc bắt giữ những kẻ phá rối trị an, hoạt động cho cộng sản, vi phạm luật pháp quốc gia. Giai đoạn 1963-1966 đã chứng minh rằng Thích Trí Quang và Phật Giáo Ấn Quang đã dùng danh hiệu Phật Tử và Tăng Ni cộng với khẩu hiệu “đàn áp Phật Giáo” để đứng trên luật pháp quốc gia, để muốn làm gì thì làm, đặc biệt là làm tay sai cho cộng sản. Sự thật chứng minh một cách rõ ràng trong suốt cả thời gian trước và sau đảo chánh 1963. Có thể nói 100% tay chân quan trọng của Thích Trí Quang đều là cán bộ cộng sản hoặc là cơ sở cộng sản như Nguyễn Khắc Từ, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Chánh Trực, Hoàng Văn Giàu, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đác Xuân, Ngô Kha, Nguyễn Trực, Võ Đình Cường, và Tống Hòa Cầm. Bọn chúng là những cơ sở rất nguy hiểm của cộng sản, hoạt động dưới ngụy danh phật tử, vì vậy, phải bị cơ quan an ninh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ. Do đó, không thể đồng hóa việc bắt giữ những tên cộng sản này là việc “bắt bớ khủng bố tín đồ Phật Giáo”.

Xin dẫn chứng thêm một nhân vật để thấy rõ việc cơ quan an ninh của Đệ I Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ một số tên cộng sản, không phải là bắt bớ Phật Tử như Thích Trí Quang, Thích Huyền Quang, Thích Hộ Giác, và Thích Quảng Độ vu khống. Hãy đọc hồi ký của Trần Văn Đôn như sau: 
“6 giờ chiều ngày 1/11/1963, Thiếu Tướng Đính đang chỉ huy tấn công các công sở cho tôi biết ông đã giải thoát nam nữ sinh viên bị giam giữ vì tham gia biểu tình phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo. Tôi yêu cầu cho cho tất cả về Bộ Tổng Tham Mưu gặp tôi. Đến 7 giờ 30, anh em sinh viên về đến Bộ Tổng Tham Mưu, tôi xuống tiếp họ. Vừa xuống cầu thang tôi nghe tiếng một anh sinh viên về sau tôi mới biết anh ta là Nguyễn Hữu Thái, sinh viên Kiến trúc, thấy tôi, anh ta hô to:
- Anh chị em! Quỳ xuống lạy các Tướng lãnh đã cứu mạng chúng ta.
Thấy họ sắp quỳ tôi vội la to: - Thôi! Thôi! Đừng… Chúng tôi không nói thêm được gì, trước cảnh nầy ai cũng quá cảm động, chảy nước mắt.”
Vâng, Trung Tướng Đôn đã chảy nước mắt cho bọn Việt Cộng vì sự đần độn của mình. Sau 1975, Nguyễn Hữu Thái hiện nguyên hình là cán bộ nội thành, đoàn viên Đội Trinh Sát Võ Trang Bí số S1, thuộc ban An Ninh T4 của Thành Ủy Saigon-Gia Định và là tay chân của Thích Trí Quang. Sau 1975, đặc công Vũ Quang Hùng, bí danh Ba Diệp, Sinh viên năm thứ 3 Đại Học Khoa Học Saigon đã xác nhận Nguyễn Hữu Thái và Lê Văn Châu là đồng phạm trong vụ ném chất nổ dưới lòng xe của giáo sư Nguyễn Văn Bông, viện trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, tại ngã tư Cao Thắng và Phan Thanh Giản, ngày 10 tháng 11 năm 1971. Nguyễn Hữu Thái cũng chính là người đứng cạnh Dương văn Minh vào ngày 30/4/1975 tại Đài Phát Thanh Sài Gòn lúc Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản. 

Những kẻ mà Thích Trí Quang và Phật giáo Ấn Quang (tập đoàn lừa đảo PGVNTN)vu khống cho chính phủ Đệ Nhất VNCH là bắt bớ Phật Tử sau 1975 đã hiện nguyên hình là những tên cộng sản chính hiệu. Như vậy, những kẻ nào đến nay còn dám mở miệng nói rằng chính phủ VNCH bắt bớ tăng ni Phật Tử những kẻ đó đích thực là một bọn tay sai tiếp tục làm công tác tuyên truyền bôi nhọ chính phủ VNCH dùm cho bọn cộng sản mà thôi.

4)- Yêu cầu cho Tăng ni Phật giáo tự do truyền đạo và hành đạo.


Trong cuốn Phật Giáo Việt Nam Tranh Đấu Sử trang 383, Thích Tuệ Giác đã viết:“Từ ngày Ông Diệm lên nắm chính quyền Chùa chiền tăng gấp đôi, điều ấy có thật”. Còn trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Thích Nhất Hạnh viết như sau:

“Từ 1956 đến 1963 thời của Tổng Thống Diệm, chùa chiền được xây nhiều hơn, các khóa đào tạo học tăng được mở liên tục, Lễ Phật Đản được tổ chúc to lớn hơn, số tăng ni tăng một cách nhanh chóng”. Ngôi Chùa Từ Đàm đã được trùng tu xây dựng to lớn khang trang, ngân khoản đều do ông Ngô Đình Cẩn giúp đỡ. Trong suốt thời gian Đệ I Cộng Hòa, trên Toàn quốc đã có trên 2000 ngàn ngôi chùa mới xây cất.

Khu đất mênh mông ở giữa đường Công Lý nay là Chùa Vĩnh Nghiêm được chính phủ Tổng Thống Diệm cấp. Bộ tài chánh không giám quyết định và trình lên Tổng Thống . Tổng Thống phê chuẩn: “Làm Chùa thì cho ngay đi”, nhưng dưới hình thức bán lại với giá tượng trưng 1$ để chùa là sở hữu chủ vĩnh viễn của khu đất.

Khu đất của Viện Hóa Đạo tại đường Trần Quốc Toản cũng được sự giúp đỡ và khởi công thời Tổng Thống Diệm.

Chùa Xá Lợi được xây cất năm 1958 với kinh phí 2 triệu đồng Việt Nam Cộng Hòa. (Thời kỳ đó một tô phở chỉ khoảng 2$ tiền VNCH mà thôi). Số tiền nầy được trích từ quỹ xã hội của Phủ Tổng Thống và trao cho ông Mai Thọ Truyền đứng ra chịu trách nhiệm xây cất với mục đích nâng đỡ phát triển kiện toàn Phật Giáo.

Vậy xin hỏi Phật Giáo có được tự do truyền đạo và hành đạo và được chính phủ VNCH đặc biệt ưu đãi hơn các tôn giáo khác hay không?

5)- Yêu cầu Chính Phủ bồi thường chính đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội một cách xứng đáng.


Có hai danh từ phải minh định rõ ràng: 
1- Giúp đỡ trợ cấp: Chuyện nầy chính phủ đã tận tình thực hiện rồi. 2- Bồi thường: Nói đến bồi thường là nói đến sự kiện pháp lý tức là luật pháp. Chính phủ cần phải có thời gian để điều tra nguyên nhân gây nên và xuất xứ của loại vũ khí giết người. Sau đó phải ra tòa và phải có phán quyết của tòa để biết ai là thủ phạm. Thủ phạm mới chính là kẻ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho nạn nhân. Vụ nổ tại đài phát thanh Huế quá phức tạp, chính phủ nào cũng cần có thời gian để điều tra làm sáng tỏ sự việc. Đến nay, mặc dù thời gian đã trên 50 năm, hoàn toàn không có bằng cớ nào cho thấy chính phủ VNCH làm việc này, mà rõ ràng 5 ngón tay chỉ có thể chĩa vào bọn cộng sản, thế thì tại sao lại bắt chính phủ phải bồi thường? Luật này là luật gì? Công lý này là công lý gì? Công lý của bọn gian hùng giả danh Phật Thích Trí Quang và Phật Giáo Ấn Quang?
Chứng minh thứ 2: Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chính phủ Đệ I Việt Nam Cộng Hòa có đàn áp Phật giáo hay không?
'Ba điều không thể che giấu mãi đó là: Mặt Trời, Mặt Trăng, và Sự Thật' - Lời của Đức Phật

Yêu cầu, lần thứ hai, Đại tà sư, đại xảo ngôn, đại lộng ngữ Thích Quảng Độ, Đại diện tập đoàn đại lừa đảo của cái gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống, và tên đại việt gian, đại nói láo, đại phản chiến, đại bịp, đại lưu manh Võ Văn Ái hãy chấm dứt ngay hành động đấu tố Việt Nam Cộng Hòa bằng vụ Án-Mạng do Thích Trí Quang và cộng sản gây ra qua vụ nướng sống Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963. Bây giờ, hãy đọc bản phúc trình của Phái Đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc liên quan đến việc tố giác Tổng thống Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo của hội Phật Giáo Việt Nam. 

BẢN PHÚC TRÌNH CUỘC ĐIỀU TRA CỦA PHÁI ĐOÀN LIÊN HIỆP QUỐC VỀ VẤN ĐỀ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ CHÍNH PHỦ CỦA ÔNG CÓ ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO HAY KHÔNG
Report of the United Nations Fact-finding mission to South Vietnam Published by The Committee of Judiciary United States, 88th Congress, 2nd Sessions. US Government Printing Office, 1964.
Sự việc khởi đầu khi một số quốc gia Hội viên Liên Hiệp Quốc nhận được những báo cáo của vị Đại Sứ Gunewardene, Tích Lan, nói rằng: Đã có vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, nên số quốc gia nầy yêu cầu đưa vấn đề đàn áp Phật Giáo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào chương trình nghị sự của Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 chưa có tư cách hội viên, mà chỉ được có tư cách là Quan Sát Viên Thường Trực mà thôi. Ngay khi được tin Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc sẽ đưa vấn đề đàn áp Phật Giáo vào chương trình nghị sự, thì Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã chỉ thị cho vị đại diện của Việt Nam Cộng Hòa tại 5 quốc gia ở Phi Châu, bác học Bửu Hội, tiếp xúc với Hội Đồng để giải quyết vấn đề này.

Trước Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Đại Sứ Bửu Hội tuyên bố: Việt Nam Cộng Hòa có chủ quyền nên không chấp nhận bất kỳ một phái đoàn nào của ngoại quốc đến điều tra hay can thiệp vào nội tình của Việt Nam Cộng Hòa, tuy nhiên, để làm sáng tỏ vấn đề chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có đàn áp Phật Giáo hay không, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa chính thức mời một phái đoàn của Liên Hiệp Quốc sang tìm hiểu tình hình Phật Giáo tại Việt Nam. Để được vô tư và minh bạch trong vấn đề tìm hiểu điều tra Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa cam đoan thi hành những điều sau đây: 
1)- Việt Nam Cộng Hòa bảo đảm phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc rằng, họ có thể đi khắp mọi nơi, bất cứ nơi nào mà họ muốn. Họ có thể thăm hỏi, phỏng vấn, điều tra bất kỳ một ai nếu họ muốn, ngay cả những vị sư sãi, và một số thành phần dân sự hiện đang bị Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa tạm giữ để điều tra vì can tội phá rối trị an.

2)- Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sẽ trịnh trọng chấp nhận kết luận và lời khuyến cáo của phái đoàn, và nếu có lỗi, sẽ đồng ý sửa sai những lỗi lầm đó.


Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp nhận lời mời của Đại sứ Bửu Hội. Ngày 24 tháng 10 năm 1963 một phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc gồm đại diện các quốc gia như Afghaniatan, Brazil, Costa Rica, Nepal Ceylon, Dahomey đến Sài Gòn để điều tra sự việc. Tại Sài Gòn, phái đoàn Liên Hiệp Quốc đã mở cuộc họp báo và họ tuyên bố với báo chí Việt Nam và quốc tế rằng: Phái đoàn sẽ điều tra tại chỗ, nghe ngóng, tiếp xúc, phỏng vấn và tiếp nhận thỉnh nguyện thư để tìm sự thật và báo cáo các sự kiện lên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.

Hai ngày đầu Phái đoàn gặp các viên chức chính quyền như ông Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Bùi văn Lương, ông Đại Biểu Chính Phủ Tại Trung Nguyên Trung Phần, ông Tỉnh trưởng Tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế, và nhiều giới chức khác. Phái đoàn cũng đã đi thăm 3 chùa và gặp đại diện Phật giáo. Sau đó phái đoàn tự ý chủ động thực hiện cuộc điều tra. Phái đoàn đã tự do đến nơi giam giữ các các tu sĩ Phật giáo, các thành phần dân sự như học sinh, sinh viên, thành phần trí thức.

Phái đoàn cũng đi ra Huế đến chùa Từ Đàm và các chùa khác gặp rất nhiều các tu sĩ Phật giáo và Phật tử, ngoại trừ Thích Trí Quang hiện đang trốn tránh trong tòa Đại Sứ Mỹ, mặc đầu có lời yêu cầu của Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge nhưng phái đoàn vẫn từ chối không tiếp xúc với Thích Trí Quang.

Ngay cả phía Hoa Kỳ, chính Đại Sứ Cabot Lodge trong bản phúc trình của ông ta gởi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng phải xác nhận rằng: Chính quyền Nam Việt Nam đối xử rất đàng hoàng với phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc, chính phủ Nam Việt Nam đã cho phép phái đoàn gặp mọi người kể cả các tu sĩ phật giáo đang bị giam giữ.

PHÁI ĐOÀN ĐIỀU TRA LIÊN HIỆP QUỐC TIẾP XÚC VÀ PHỎNG VẤN NHỮNG NGƯỜI TỐ CÁO TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ CHÍNH PHỦ CỦA ÔNG ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO
Có hai thành phần tố cáo Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chính phủ của ông ta đàn áp Phật Giáo đã được Phái Đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc tiếp xúc, phỏng vấn gồm có:


1- Các tu sĩ trong hàng ngũ Phật Giáo
Hoà Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết. Thích Hộ Giác. Thích Thiện Minh. Thích Đôn Hậu. Thích Tâm Châu. Thích Thiện Hoa. Thích Huyền Quang. Thích Đức Nghiệp. Thích Mật Nguyện. Thích Thiện Siêu. Thích Quảng Liên. Thích Chánh Lạc. Thích Quảng Độ. Thích Chánh Lạc. Thich Giác Đức. Thích Thể Tịnh. Thích Thiên Thăng. Thích Tâm Giao. Ni cô Nguyễn Thị Lợi. Ni cô Tịnh Bích. Ni cô Diệu Khuê. Ni cô Diệu Không, Pháp Tri. Ông Mai Thọ Truyền.
2) Các giáo sư Đại Học Huế, Sài Gòn, trí thức khoa bảng, chính trị gia, sinh viên học sinh
Giáo sư Bùi Tường Huân, Khoa Trưởng Đại Học Luật Khoa Huế, bác sĩ Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng Đại Học Y khoa Huế, kiêm Giám Đốc Bệnh Viện Trung Ương Huế, giáo sư Nghiêm Xuân Thiện, ông Trần Quốc Bửu, ông Trần văn Đỗ, ông Phan Huy Quát, ông Lê Quang Luật, ông Hồ Hữu Tường.

Bên cạnh đó, phái đoàn Liên Hiệp Quốc cũng đã tiếp xúc với một số người đã báo cáo rằng họ bị bắt giam, bị đánh đập, bị thương, hay thân nhân của những người báo cáo đã bị giết chết, các người chuẩn bị tự thiêu, các sinh viên và phật tử bị bắt v.v…

KẾT QUẢ VẤN ĐỀ ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO BẢN PHÚC TRÌNH CỦA ỦY BAN ĐIỀU TRA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ VẤN ĐỀ KỲ THỊ, ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA

Sau một thời gian 2 tuần điều tra, phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc đã phúc trình với kết luận như sau:
1)- Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã tận tình hợp tác với phái đoàn, phái đoàn có thể đi bất cứ nơi đâu mà họ muốn. Phái đoàn cũng đã tiếp xúc và lấy lời khai tất cả các nhân chứng mà họ thấy cần thiết.

2)- Đây là lần đầu tiên mà Liên Hiệp Quốc thực hiện một cuộc điều tra tại chổ về một chính phủ bị tố cáo vi phạm nhân quyền, nhưng không phải là do yêu cầu của Liên Hiệp Quốc, mà lại do lời mời của chính phủ đó.

3)- Chính phủ của Tổng Thống Diệm đã tạo cho phái đoàn điều tra một cảm tưởng rằng chính phủ sẵn sàng sửa chữa những sai lầm nếu đã phạm phải, cũng như chính phủ của Tổng Thống Diệm tin chắc rằng những sự kiện căn bản sẽ chứng minh rằng chính phủ không có lỗi.

4- Ông Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc đã kể lại một số chi tiết khi nghe lời khai của một người dự định tình nguyện tự vận bằng cách tự thiêu như sau:

“Có một vị sư trẻ mới 19 tuổi, khai với phái đoàn điều tra rằng, ông ta được một số sư sãi khuyến khích tự thiêu vì Hòa Thượng Hội Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết đã bị giết, hằng trăm Phật tử đã bị chính quyền dìm chết dưới sông Sài gòn, nhiều ni cô đã bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi đã bị đốt cháy. Nhà sư 19 tuổi nầy được yêu cầu tình nguyện hy sinh tự vận vì Phật giáo, và được bảo đảm rằng ông ta sẽ được cho uống thuốc để không bị đau đớn, ngoài ra ông ta cũng được đưa 3 bức thư tuyệt mệnh đã được viết sẵn để cho ông ta ký vào. Ông ta bị cảnh sát bắt, ngăn chận cuộc tự thiêu của ông ta và cũng là kịp lúc nhà sư trẻ 19 tuổi nầy biết được những gì mà ông ta đã nghe các nhà sư kia kể cho ông chỉ là những chuyện láo khoét bịa đặt, độc ác và hoàn toàn thất thiệt. Tất cả chỉ là để kích động ông mà thôi.”
5)- Phái Đoàn cũng đã tìm gặp được một số nhà sư lãnh đạo Phật Giáo và thanh niên phật tử mà theo những báo cáo trước đây mà phái đoàn đã nhận được rằng những người nầy đã bị chính quyền của Tổng Thống Diệm giết chết, nay hóa ra đó chỉ là những báo cáo khống, không đúng sự thật.

6)- Phái Đoàn không tìm thấy bằng chứng nào xác nhận những báo cáo đã dược công bố nói rằng, có những nhà sư đã bị ném từ trên các tầng lầu cao xuống đất vào đêm Thiết quân luật 20/8/1963 khi lực lượng quân đội của chính quyền Tổng Thống Diệm mở cuộc hành quân lục soát chùa Xá Lợi.

7)- Thượng Nghị Sĩ Thomas J. Dold cũng gởi những báo cáo lên Thượng Nghị Sĩ James E. Eastland Chủ Tịch Nội An Thượng Viện ngày 17 tháng 2 năm 1964 những tin tức mà ông ta đã nhận được:
"Chúng ta đã nhận được những báo cáo rằng, chính phủ Diệm đã khủng bố tôn giáo một cách tàn nhẫn đến nỗi những người vô tội đã bị dồn vào thế phải tự vận để phản đối. Nhưng nay ta thấy sự thật không phải như vậy, mà sự thật là không hề có vấn đề khủng bố ai cả, và cuộc khuấy động nầy căn bản mang tính cách chính trị”.
Ngoài ra, Lời tuyên bố của Thượng Nghị Sĩ Thomas J. Dold như sau:
"Những lời buộc tội chế độ Diệm tại Liên Hiệp Quốc không có căn bản, và không chấp nhận được." Theo ông ta, "những tài liệu tố cáo chất đống, quá nhiều, nhưng tất cả đều không chứng minh được đã có sự kỳ thị tôn giáo hay xâm phạm tự do tôn giáo”.
Tóm lại Bản Phúc Trình của Liên Hiệp Quốc đã chính thức kết luận rằng:
1)- Tại Việt Nam hoàn toàn không có chính sách kỳ thị áp bức hay khủng bố đối với Phật giáo trên căn bản tôn giáo.

2)- Những người khai báo cho phái đoàn biết về vụ nầy thường là chỉ nghe nói lại và trình bày một cách mơ hồ, tổng quát.

3)- Mỗi nhân chứng đều cố gắng tìm một bằng chứng cụ thể để trình với phái đoàn, nhưng rốt cuộc chỉ thấy có một vài hành vi lẻ tẻ, nhỏ nhặt, mang tính cách cá nhân mà thôi.

4)- Vì vậy căn cứ trên những sự kiện, bằng chứng đưa ra từ các người được phái đoàn phỏng vấn, phái đoàn đi đến kết luận rằng: Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông ta không chủ trương chính sách chống Phật Giáo vì lý do tôn giáo.

Chính Dân Biểu Sablocki của Đảng Dân Chủ thuộc Tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ, vào ngày 13 tháng 11 năm 1963 tại Hoa Thịnh Đốn đã tuyên bố rằng:

“Dù rằng vụ đảo chánh đã đem lại một đổi thay cho hiện trạng Việt Nam, thế nhưng bản trường trình của Phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc vẫn có giá trị lịch sử trong việc giải minh vấn đề Phật giáo.”

Liên Thành
Cựu Chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia/Việt Nam Cộng Hòa, Thừa Thiên Huế

Đồng gởi: Công Luận và Hậu duệ Việt Nam Cộng Hòa

 
 

Đặng Phúc :Ván bài lật ngữa: Võ Văn Ái -13 tuổi, và chuyện 1000 máy bay Mỹ ngợp trời VN năm 1948

2 comments:

Anonymous said...

Tôi là một người theo phật giáo, từ thời ông cố của tôi ( trước đó thì tôi không biết ). Năm nay tôi 72 tuổi, sinh năm 1941. Suốt những năm thuộc đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa, tôi hoàn toàn không thấy một biểu hiện nào cho sự đàn áp Phật Giáo của chính phủ. Chưa bao giờ tôi bị dụ dổ hay ép buộc tôi ra khỏi đạo.
Tôi cứ tự nhiên thoải mái hành đạo hay đi chùa. Khoảng năm 1959-1960 ba tôi cất nhà. Ông ra hảng gạch Đời Tân mua "gạch bông " để lót nền. Ông thấy một thứ gạch
đẹp và màu sắc u nhả, nên ông muốn mua. Ông chủ hảng gạch cười cười và trả lời là gạch này ông không bán được, vì đây là gạch mà tổng thống Ngô-Đình-Diệm đặt làm để cúng cho một ngôi chùa đang xây dựng. Ba tôi đành phải chọn thứ gạch khác. Lúc đó tôi khoảng 19 tuổi nhưng cũng cảm thấy vui vẻ trong lòng, hảnh diện vì Ngô tổng Thống đối xử tốt với đạo phật "của minh".
Ngày nay, thật sự tôi chán những ông cấp lớn của đạo Phật. Tôi hiện tại nếu có viếng chùa, tôi chĩ đến những ngôi chùa nhỏ nghèo nàn ở quê mà thôi. Những chùa lớn tôi ngại lắm, tôi không tin các ông thầy ở những chùa lớn đó nửa.
Nói chung , theo tôi những người trong Nam theo VC trước 75 thì còn có thể thông cảm vì họ bị tuyên truyền. Bây giờ ai còn theo nửa thì đúng là họ quá u mê, hay là vì quá ham tiền.

Anonymous said...


Tôi là một người theo phật giáo, từ thời ông cố của tôi ( trước đó thì tôi không biết ). Năm nay tôi 72 tuổi, sinh năm 1941. Suốt những năm thuộc đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa, tôi hoàn toàn không thấy một biểu hiện nào cho sự đàn áp Phật Giáo của chính phủ. Khoảng năm 1959-1960 ba tôi cất nhà. Ông ra hảng gạch Đời Tân mua "gạch bông " để lót nền. Ông thấy một thứ gạch
đẹp và màu sắc u nhả, nên ông muốn mua. Ông chủ hảng gạch cười cười và trả lời là gạch này ông không bán được, vì đây là gạch mà tổng thống Ngô-Đình-Diệm đặt làm để cúng cho một ngôi chùa đang xây dựng. Ba tôi đành phải chọn thứ gạch khác. Lúc đó tôi khoảng 19 tuổi nhưng cũng cảm thấy vui vẻ trong lòng, hảnh diện vì Ngô tổng Thống đối xử tốt với đạo phật "của minh".
Ngày nay, thật sự tôi chán những ông cấp lớn của đạo Phật. Tôi hiện tại nếu có viếng chùa, tôi chĩ đến những ngôi chùa nhỏ nghèo nàn ở quê mà thôi. Những chùa lớn tôi ngại lắm, tôi không tin các ông thầy ở những chùa lớn đó nửa.
Nói chung , theo tôi những người trong Nam theo VC trước 75 thì còn có thể thông cảm vì họ bị tuyên truyền. Bây giờ ai cò theo nửa thì đúng là họ quá u mê, hay là vì quá ham tiền.

Thời Sự "Nóng"





------------------------------------------

---------------------------------------------------------
Vân Anh -Ngày 1 tháng 10 Hà Nội Chính Thức Bán Nước Cho Bắc Kinh
----------------------------------------