Lê Đức Anh • Lê Văn Dũng • Văn Tiến Dũng • Võ Nguyên Giáp • Đoàn Khuê • Chu Huy Mân • Nguyễn Quyết • Lê Trọng Tấn • Hoàng Văn Thái • Nguyễn Chí Thanh • Phùng Quang Thanh • Phạm Văn Trà
Báo CS về Lê Trọng Tấn
 | Đại tướng Võ Nguyên Giáp (phải) và tướng Lê Trọng Tấn trao đổi kế hoạch tác chiến | Ngày 5.12.1986, cái chết bất ngờ đã mang tướng Lê Trọng Tấn ra khỏi cuộc sống nhưng không hề mang ông khỏi tâm tưởng những người Việt Nam hiểu rõ lịch sử dân tộc mình. Không phải danh vị, cũng không phải công trạng mà chính nhân nghĩa Việt Nam từ trái tim ông đã tìm được đường đến với tất cả những trái tim Việt Nam nhân nghĩa khác... "Anh Tấn ơi! Ngơ ngác khắp quân doanh/Sáng họp... tối đi... sao vội thế anh?/Đại hội chưa xong... anh lên đường/Như xưa kia Bác Hồ điện gấp/Vẫn như ngày nào suốt đời cập rập/"Chơ vơ dưới cửa ba nghìn khách/Lạnh lẽo trong lòng chục vạn binh"/Sáng như trời sang xuân/Tối như mùa đổi tiết/...". Bài thơ khóc bạn của kịch tác gia Tào Mạt đã phác họa chân dung bình dị của vị tướng lẫy lừng chiến công Lê Trọng Tấn, vị tướng mà cho đến tuổi bảy mươi vẫn mặc áo lính, vẫn chiến chinh trận mạc đúng như một nguyên soái, luôn đến nơi hòn tên mũi đạn bất cứ lúc nào Tổ quốc gọi. Cái chết quá bất ngờ của ông vào một thời điểm quan trọng khiến những bằng hữu và đồng đội ông càng ý thức rõ về khoảng trống mà ông để lại, cho dù trong suốt cuộc đời chỉ quan tâm mục tiêu duy nhất vì dân vì nước, ông quá bận rộn chuyện quân đến mức không còn thì giờ để nghĩ đến bản thân mình. Sinh năm 1914 trong một gia đình trí thức, cha là thầy đồ nghèo mất sớm khi cậu vừa bảy tuổi, cậu học trò Trường Bưởi Lê Trọng Tố (tên khai sinh của ông) được ăn học bằng sự tần tảo của người mẹ thương con. Rất say mê võ nghệ và bóng đá, cậu được tuyển vào đội bóng đá của không quân Pháp. Sau đó, như tất cả thanh niên ưu tú của thế hệ mình, Lê Trọng Tấn đã nghe theo lời hiệu triệu của đất nước, gia nhập hàng ngũ những người cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Hai cuộc chiến tranh kéo dài nhiều thập kỷ của Việt Nam đã đào luyện nên nhiều danh tướng, nhưng không có ai như Lê Trọng Tấn: năm 1954 trong chiến dịch Điện Biên Phủ, với tư cách Đại đoàn trưởng đại đoàn 312 (sau đổi tên là Sư đoàn Chiến Thắng) đã đánh thẳng vào trung tâm sở chỉ huy Mường Thanh, bắt sống tướng De Catries. Và mùa xuân năm 1975, ông lại là tư lệnh cánh quân phía đông đánh thẳng vào Dinh Độc Lập, nhận sự đầu hàng của chính phủ Dương Văn Minh. Cái tên Lê Trọng Tấn gắn liền với danh hiệu Tướng trận giỏi nhất Việt Nam bắt nguồn từ những nguyên cớ ấy. Kể từ trận đầu tiên đánh Đông Quan - thành Hà Nội năm 1944 cho đến trận đánh ngày 1.7.1983 ở biên giới phía bắc, suốt 40 năm, Lê Trọng Tấn không một ngày rời bỏ trách nhiệm người vệ quốc quân. Đại tướng Lê Trọng Tấn - Những ngày đầu cách mạng 2:00, 23/12/2008 Nhà nghỉ cán bộ lão thành cách mạng Đại Lải sương chiều bàng bạc trải trên cánh rừng thưa, thoảng mùi hương thơm dìu dịu của các loài hoa nở cánh khi chiều về. Những giọt mưa ngâu chảy rì rầm hòa cùng tiếng kể chuyện đều đều của cụ Phí Văn Bái (tức Phan Kỳ Đức)... Giữa năm 1942, tôi đến một cơ sở cách mạng ở làng Lương Yên. Đang nói chuyện thì một quân nhân trong bộ đồ nhà binh Pháp ở phía cổng đi vào. Tôi lánh sang buồng bên cạnh nói chuyện với các em đang học. Khi người ấy về, chủ nhà cho biết đó là Lê Trọng Tố. Tôi ngờ ngợ đã gặp anh này từ trước ở đâu đó. Sau mới nhớ, anh Tố là một cầu thủ đá bóng giỏi của đội Eclair (Tia chớp) ở vị trí tiền vệ. Anh đá rất hay với những pha lấy bóng rất kỹ thuật, tài cản bóng và khéo léo dắt bóng vào khu vực ít đối phương để đồng đội tung hoành dễ dàng trước khung thành đội bạn. Anh Trần Ất, một người bạn dạy chữ Quốc ngữ buổi tối với tôi từ năm 1938 ở chùa Hộ Quốc làng Thanh Nhàn cho biết: Anh Lê Trọng Tố là con cụ Đồ Lê, người đã từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Khi phong trào bị đàn áp, cụ về làng Thanh Nhàn mở lớp dạy chữ Nho, anh Trần Ất là trưởng tràng (lớp trưởng). Năm 1926, cụ Đồ Lê và Nhượng Tống đã tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh mới tạ thế, tại đền Hai Bà Trưng làng Đồng Nhân. Năm sau nổi lên sự kiện bài thơ “Chiêu hồn nước” của Phạm Tất Đắc. Cứ cuối mỗi buổi học, cụ Đồ Lê lại dạy cho học trò của mình học thuộc lòng 10 câu thơ trong bài. Sau khi biết anh Lê Trọng Tố là con một gia đình yêu nước, tôi nhờ gia đình cơ sở cách mạng đưa báo Cứu Quốc và báo Cờ giải phóng cho anh. Anh Tố rất vui và mong được nhận báo luôn. Mùa đông năm 1943, đồng chí Lưu Đức Hiểu (tức Lưu Quyên), trước là Bí thư Thành ủy Hà Nội, vượt ngục Sơn La về Hà Nội biết chuyện này đã bảo tôi giao việc thử thách anh Tố, nếu kết quả tốt thì kết nạp vào tổ chức Mặt trận. Đầu tiên anh Lê Trọng Tố mua hai tín phiếu của Việt Minh... Theo chỉ thị của đồng chí Lê Quang Đạo - Bí thư Ban Cán sự Hà Nội - tôi và đồng chí Nguyễn Trí Uẩn chuẩn bị ra một tờ báo: tờ Khởi nghĩa. Qua người em trai của anh Lê Trọng Tố là Lê Quý Giả (sau Cách mạng tháng Tám 1945 đổi tên là Trịnh Quý Đông, làm Bí thư Tỉnh ủy Đảng Dân chủ tỉnh Hưng Yên, Đại biểu Quốc hội khóa I) - một thanh niên Cứu quốc trong tổ do anh Nguyễn Trí Uẩn phụ trách - vận động anh Tố nhận để cơ sở in bí mật tại nhà anh ở phía ngoài đê sông Hồng giữa những hàng cây um tùm kín đáo, xung quanh toàn người lao động đi làm suốt ngày. Không chỉ riêng anh mà cả chị vợ là Nguyễn Thị Mùi (tức Nguyễn Thị Minh Sơn) nhận lời và người em trai chị cùng tham gia, về sau là Thượng tướng Lê Ngọc Hiền. Anh chị còn nuôi hai người làm việc trong nhà in và bảo vệ chu đáo. Bây giờ nhắc lại thấy đơn giản, nhưng lúc ấy, dưới quyền thực dân Pháp, đó là công việc nguy hiểm vô cùng. Nếu không phải gia đình có nhiệt tình với cách mạng thì anh em hoạt động gặp rất nhiều khó khăn. Việc thử thách đã có kết quả tốt, tôi và ông Nguyễn Trí Uẩn báo cáo lên ông Lê Quang Đạo - Bí thư, và ông Vũ Quý - Ủy viên Ban Cán sự Đảng Hà Nội (Khi ông Lê Quang Đạo đi công tác xuống Hải Phòng, ông Vũ Quý làm Quyền Bí thư). Hai ông Lê Quang Đạo và Vũ Quý quyết định đồng ý kết nạp Lê Trọng Tố vào Mặt trận Việt Minh... Anh Nguyễn Thế Cát là người gặp anh Tố nói chuyện trực tiếp về Mặt trận. Vì anh Lê Trọng Tố là quân nhân nên đi đâu cũng thu hút sự chú ý của mọi người. Tôi và anh Nguyễn Trí Uẩn suy nghĩ nhiều, cuối cùng đi đến thống nhất: mời anh Tố đến nhà hát cô đầu ở phố Khâm Thiên, tuyên bố công nhận Lê Trọng Tố gia nhập Mặt trận Việt Minh. Sau đó đề nghị đồng chí Vũ Quý chuyển anh Tố vào hoạt động trong tổ chức Binh sĩ Cứu quốc. Sau Cách mạng tháng Tám, mỗi người được Đảng phân công công tác một nơi khác nhau. Tôi được cử làm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Ninh Bình, rồi được điều động lên Cục Địch vận – Tổng cục Chính trị. Ông Lê Trọng Tố đổi tên thành Lê Trọng Tấn tham gia quân đội, làm Trung đoàn trưởng E209 (Sông Lô), rồi Tư lệnh Đại đoàn 312. Đầu những năm 60, một hôm tôi ở trong ngõ nhà anh Giang Đức Tuệ đi ra phố Lý Nam Đế - cụ Phí Văn Bái kể tiếp - một chiếc xe ôtô lướt qua rồi dừng lại. Cửa xe mở ra, một vị đeo quân hàm cấp tướng mời tôi lên xe: anh Lê Trọng Tấn. Anh đưa tôi về nhà anh ở 36C Lý Nam Đế. Sau khi nhờ đồng chí bảo vệ đưa tôi vào phòng khách, còn mình đi cất tài liệu và rửa mặt, anh trở ra ôm tôi rất lâu. Anh hỏi từng anh em cùng hoạt động trước ngày Nhật đảo chính Pháp. Riêng tôi, anh nói nhỏ: “Anh Bái trong chỉnh quân, chỉnh huấn, cải cách ruộng đất có làm sao không?”. Anh dẫn tôi xuống nhà dưới thăm chị đang ốm. Anh hỏi chị: “Bà có nhớ ai đây không?”. Chị Nguyễn Thị Mùi (tức Nguyễn Thị Minh Sơn) nắm tay tôi, mỉm cười, khẽ nói: “Anh Phí Văn Bái cùng anh Văn Cao xuống nhà ta nhiều lần”. Khi tiễn tôi về, trước khi ra cổng, anh nhờ tôi hỏi thăm từng người và hẹn một ngày gần sẽ gặp nhau đầy đủ. Lúc chia tay ra về, anh Lê Trọng Tấn hẹn sau khi về già, đất nước thống nhất hòa bình, nghỉ hưu, có thời gian rảnh rỗi chúng tôi sẽ gặp nhau cùng tâm sự những nỗi truân chuyên đã trải qua. Tiếc thay anh mất đột ngột trên cương vị công tác, công việc còn dang dở, ước mong của anh chưa vẹn tròn... Cụ Phí Văn Bái trầm ngâm, một thoáng im lặng bao phủ khắp căn phòng:
Hoàng Văn Thái Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Đại tướng Hoàng Văn Thái (1915–1986), Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam. Chân dung Đại tướng Hoàng Văn Thái (1915-1986) [sửa] Tiểu sử Ông tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. - Năm 1938, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Năm 1941, chỉ huy tiểu đội Cứu quốc quân Bắc Sơn (Lạng Sơn). Sau phụ trách Trường Quân chính kháng Nhật ở Tân Trào cho đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Ông cũng là một trong 34 chiến sĩ Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đầu tiên tham dự lễ thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944.
- Tháng 9 năm 1945, được Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh giao thành lập Bộ Tổng tham mưu quân đội quốc gia, sau giữ chức Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (1945 - 1953).
- Năm 1948, ông là 1 trong 9 Thiếu tướng đầu tiên của Việt Nam. Cùng được phong trong đợt này có : Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Nguyễn Bình, và 9 thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Sâm, Trần Đại Nghĩa...
- Năm 1950, ông kiêm chức Tham mưu trưởng chiến dịch Biên Giới.
- Năm 1954, ông được điều động đặc biệt giữ chức Tham mưu trưởng chiến dịch Điện Biên Phủ, phụ tá cho Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp.
- Năm 1958, ông được thăng quân hàm Trung tướng, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn,
- Năm 1960, kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao của Chính phủ.
- Năm 1966, ông được phân công làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu V.
- Từ năm 1967 đến 1973, ông được phân công vào Nam, giữ chức Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, kiêm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
- Từ năm 1974, ông được thăng quân hàm Thượng tướng và được cử vào chức vụ Thứ trưởng Quốc phòng, kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, Ủy viên thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.
- Năm 1980, ông được thăng quân hàm Đại tướng.
- Ông là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa II, IV, V và là đại biểu Quốc hội khóa VII.
- Năm 1986, ông qua đời đột ngột vì bệnh tật.
- Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Sao vàng (truy tặng năm 2007), Huân chương Hồ Chí Minh, 2 Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.
Là người trực tiếp chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Hoàng Văn Thái đã có những trang viết tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh và khắc họa chiến công của dân tộc ta trong kháng chiến 9 năm chống quân xâm lược hết sức sinh động, cụ thể. Các công trình nghiên cứu, bài viết, những dòng hồi ức của Đại tướng về chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ mang đến cho độc giả trong và ngoài nước những hiểu biết đầy đủ và phong phú về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam ta; đồng thời nêu bật những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân

Thượng tướng Đinh Đức Thiện - 0.00 USD Thượng tướng Đinh Đức Thiện Thượng tướng Đinh Đức Thiện (1913-17h5’ ngày 20/11/1987), nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần, Chủ nhiệm Tổng Cục kỹ thuật Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ông được phong Quân hàm Trung tướng (1974), Thượng tướng (1986).
Ông cũng từng giữ các chức vụ Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Bộ trưởng Bộ cơ khí luyện kim, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Phó Chủ nhiệm ủy ban kế hoạch nhà nước.
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng I, Huân chương Chiến thắng hạng I, Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, Huân chương Quân kỳ Quyết thắng.
Thượng tướng Đinh Đức Thiện, tên thật là Phan Đình Dinh, quê tại xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định trong một gia đình nhà Nho, cha ông mất sớm mẹ ông tần tảo nuôi tám anh em ông. Ông có người anh trai là Ngoại giao Lê Đức Thọ và người em trai là Đại tướng Công an Mai Chí Thọ.
Năm 1930 ông tham gia hoạt động cách mạng bị thực dân Pháp bắt giam ở Nam Ðịnh. Năm 1931, sau khi được trả tự do, ông vào Sài Gòn hoạt động.
Năm 1936, thời kì của phong trào Mặt trận Dân chủ, ông hoạt động tích cực trong Hội ái hữu. Năm 1939, ông được kết nạp vào Ðảng cộng sản Ðông Dương.
Tháng 4/1940 ông bị thực dân Pháp bắt lần thứ 2 giam ở nhà lao Nam Ðịnh sau chuyển về nhà lao Hoả Lò Hà Nội. Năm 1942 ông ra tù, tìm bắt liên lạc với Trung ương và tiếp tục hoạt động ở địa phương.
Tháng 4/1944, Trung ương điều động ông lên hoạt động ở Vĩnh Yên nhằm xây dựng cơ sở chính trị và an toàn khu cho Trung ương. Tháng 1/1945, Trung ương quyết định chuyển đoàn công tác do ông đứng đầu thành Tỉnh ủy lâm thời Vĩnh Yên, ông tham gia Ban cán sự Tỉnh uỷ rồi làm Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Yên.
Cuối tháng 3-1945, Tỉnh uỷ lâm thời Vĩnh Yên họp hội nghị đầu tiên bàn kế hoạch thi hành Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Tháng 4 đến tháng 7-1945 nhiều cuộc biểu tình của nhân dân diễn ra ở nhiểu nơi ủng hộ Việt Minh, chuẩn bị khởi nghĩa, đồng thời nhiều cuộc biểu tình phá kho thóc của địch nổ ra tạo nên khí thế cách mạng rất mạnh mẽ.
Từ tháng 6/1945 đến 8/1945, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Vĩnh Yên mà đứng đầu là ông, các Uỷ ban dân tộc giải phóng ở các làng xã được thành lập; chuẩn bị lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành lại chính quyền.
Sau cách mạng tháng 8/1945, ông làm bí thư kiêm chủ tịch Uỷ ban hành chính Bắc Giang rồi năm 1947 được Trung ương chỉ định uỷ viên khu 12. Từ năm 1948-1949, ông là Uỷ viên thường vụ Khu uỷ Khu I khu Việt Bắc.
1950 được điều vào quân đội giữ chức Cục trưởng Cục vận tải, vừa là bí thư Ðảng uỷ cục, đồng thời là Ðảng uỷ viên Ðảng uỷ Cục cung cấp.
1954 Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Uỷ viên thường vụ Tổng cục đảm bảo hậu cần tiếp tế kịp thời các chiến dịch, đặc biệt Ðông Xuân 1953-1954 góp phần đảm bảo vận chuyển đáp ứng lương thực chiến dịch Ðiện Biên Phủ.
Thời kì 1957-1964, thời kì của kế hoạch năm năm lần thứ nhất khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ công nghiệp nặng, thường vụ đảng đoàn Bộ công nghiệp và tiếp đó vào năm 1959 kiêm làm Giám đốc, Bí thư Ðảng uỷ Khu gang thép Thái Nguyên-đây là công trình công nghiệp nặng đầu tiên ở nước ta.
Năm 1965, Mỹ đõ quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam nhằm thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ đồng thời đánh phá ác liệt miền Bắc, ông được điều trở lại quân đội giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Uỷ viên quân uỷ Trung ương. Ông thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo quá trình xây dựng Đường Trường Sơn cũng như đoàn 559 và quá trình chi viện cho tiền tuyến miền Nam.
Năm 1969, ông kiêm chức Bộ trưởng, Ðảng đoàn Bộ Cơ khí luyện kim.
Năm 1972, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Sau năm 1973, khi quân Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam theo hiệp định Paris, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định chuẩn bị mọi mặt về lực nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam. Đường chiến lược phía Đông Trường Sơn bắt đầu được xây dựng, một khối lượng lớn phương tiện kĩ thuật, bộ đội, công nhân, kĩ sư và thanh niên xung phong được huy động. Trên cương vị là Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải ông đã chỉ đạo cán bộ công nhân viên của Bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phối hợp cùng với Binh đoàn Trường Sơn.
Năm 1974, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào giai đoạn cuối, Chủ nhiệm và Bí thư Ðảng đoàn Tổng cục hậu cần.
Tháng 9/1974 ông là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Chủ nhiệm và bí thư Ðảng uỷ Tổng cục Kỹ thuật.
Xuân 1975 là thành viên bộ phận đại diện quân uỷ Trung ương và bổ Tổng tư lệnh chỉ đạo Chiến dịch giải phóng Tây nguyên và sau đó tham gia bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh trên cương vị Phó Tư lệnh phụ trách Hậu cần và Kỹ thuật.
Miền Nam giải phóng ông được bổ nhiệm làm phó chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước.
Năm 1976, ông là Bộ trưởng phụ trách Tổng cục dầu khí, bí thư Ðảng đoàn Tổng cục. Khi đó, dầu khí là một lĩnh vực rất mới mẻ đối với Việt Nam.
Năm 1980, ông là Bộ trưởng kiêm Bí thư ban cán sự Bộ Giao thông Vận tải.
Cho đến năm 1982, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ông được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội III và được bầu vào uỷ viên chính thức tại đại hội IV.
Trong bất kì một cuộc chiến tranh nào, bài toán hậu cần là một trong những bài toán được đặt ra đầu tiên, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định chiến lược nó là một phần của lực trong tổng quan thế và lực. Và người được giao trọng trách hậu cần phải là người có tài tổ chức, hoạch định chẳng những trước mắt mà còn lâu dài. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã may mắn khi trong kháng chiến chống Pháp có Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp-Đại tá Trần Đăng Ninh và trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước có Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần-Thượng tướng Đinh Đức Thiện.
Thượng tướng Đinh Đức Thiện còn được mệnh danh là ‘’vị tướng công trường’’, có lẽ nó bắt đầu từ thời kì ông được Trung ương cử đi trực tiếp chỉ đạo công trường xây dựng khu gang thép Thái Nguyên. Rồi việc ông thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh, rồi xây dựng cơ sở vật chất cho ngành dầu khí Việt Nam ngay từ thuở ban đầu…
Ông có một tác phong làm việc hết sức sâu sát, xông xáo trong chỉ đạo giải quyết công việc trên cơ sở thực tế và không ưa hình thức. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông luôn luôn ở tuyến đầu (đường Trường Sơn) trực tiếp chỉ đạo xây dựng và chi viện cho chiến trường. Trước những chiến dịch lớn ông thường có những chuyến đi vượt tuyến nhằm kiểm tra cơ sở hậu cần, các binh trạm trên tuyến đường Trường Sơn ví dụ như Chiến dịch Đường 9 Nam Lào. Có một số câu chuyện về ông rất thú vị, ví dụ như chuyện thời kì ông được cử lên chỉ đạo công trường xây dựng khu gang thép Thái Nguyên. Khi nghe tiếng mìn nổ của kĩ sư ở phía xa, ông cho gọi người kĩ sư lên bảo rằng kĩ thuật đánh mình chưa tốt vì nếu nhồi thuốc nổ tốt thì khi phá đá chỉ có một tiếng ‘’ục’’, như vậy vừa không đạt chỉ tiêu kĩ thuật vừa lãng phí. Sở dĩ ông biết vậy là bản thân ông cũng từng tự tay nhồi thuốc phá đá.
Tướng Đinh Đức Thiện là một người nóng tính, nhưng ông không bao giờ nổi nóng vô cớ. Chính vì vậy khi ông ‘’nổi giận’’ cách tốt nhất là im lặng. Nóng tính nhưng tính ông rất phục thiện. Thời kì 65, khi đó xe ô tô đi trên đường Trường Sơn còn chưa có pháo bảo vệ. Có một tiểu đoàn xe chi viện cho chiến trường miền Nam đi trên đường Trường Sơn bị bom Mỹ phá hỏng hết xe. Ông cho gọi người tiểu đoàn trưởng lên hết sức giận dữ. Người tiểu đoàn trưởng bình tĩnh trả lời đại loại ‘’xe đi không có pháo bảo vệ, lần sau có thể là đến người chứ chẳng nói gì đến xe’’. Ai cũng lo lắng cho người tiểu đoàn trưởng đó. Nhưng tướng Thiện hiểu ra làm lành và bàn với bên pháo binh về kế hoạch bảo vệ xe.
Mùa Xuân 1975, lúc đầu Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm, nếu có thể thì giải phóng ngay trong năm 1975. Để chuẩn bị cho chiến lược này, đòi hỏi hậu cần phải chuẩn bị chiến lược về hậu cần và kĩ thuật hết sức to lớn, toàn diện và lâu dài. Trước những biến đổi mau lẹ của chiến trường, ta chủ trương giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975, đòi hỏi một năng động lớn về chỉ đạo và chỉ huy để đáp ứng tốt nhất những yêu cầu rất cao về đảm bảo vật chất và kĩ thuật. Mặt khác cuộc tổng tiến công chiến lược lại diễn ra trên địa bàn miền Nam dài và rộng, chiều dài hàng ngàn cây số lại phải đảm bảo các cánh quân, các quân đoàn cơ giới vận động đến đâu thì cơ sở vật chất và hậu cần phải vươn theo đến đó đặc biệt lượng vũ khí cho trận đánh cuối cùng là có khổi lượng lớn, đa dạng…Vì vậy công tác hậu cần kĩ thuật cũng phải có phương thức bảo đảm thần tốc và kịp thời. Tướng Thiện khi đó là Phó tư lệnh chiến dịch chỉ đạo hậu cần đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà theo đúng như câu trả lời của ông trước Trung ương về tình hình chuẩn bị hậu cần kĩ thuật ‘’có thể bắn đến mấy đời’ và lời của ông với cán bộ chiến sĩ ‘’các cậu cứ bắn thật mạnh vào ! Bắn cho chúng nó sợ. Sợ đến ba đời’’. Với tác phong chỉ đạo của mình, ông trực tiếp đến những kho hậu cần vừa chiếm được chỉ đạo lấy trang thiết bị của đối phương trang bị cho bộ đội tiếp tục hành tiến./.
Đinh Đức Thiện Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thượng tướng Đinh Đức Thiện (1913–1987) là một trong những người lãnh đạo chủ chốt trong việc xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại trong Chiến tranh Việt Nam. [sửa] Tiểu sử Ông tên thật là Phan Đình Dinh, quê xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, sinh trưởng trong gia đình nhà nho nghèo, cha mất sớm, mẹ ông đã tần tảo nuôi 8 người con (trong đó có Lê Đức Thọ là anh và Mai Chí Thọ là em). Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm Bí thư, kiêm Chủ tịch tỉnh Bắc Giang, sau đó giữ nhiều trọng trách ở Khu uỷ Việt Bắc và Bộ trưởng Bộ Cơ khí luyện kim. Năm 1950, ông được điều vào quân đội giữ chức Cục trưởng Cục vận tải. Năm 1954, là Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, đặc trách nhiệm vụ đảm bảo hậu cần tiếp tế các chiến dịch, đặc biệt Đông Xuân 1953-1954, chuẩn bị nhu cầu đáp ứng lương thực chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ 1957 đến 1964, ông là Thứ trưởng Bộ công nghiệp nặng. Đến năm 1965, được điều trở lại quân đội, giữ chức chủ nhiệm Tổng cục hậu cần. Trên cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, ông là một trong những lãnh đạo chủ chốt xây dựng con đường chiến lược đường mòn Hồ Chí Minh, mật danh 559, chi viện chiến lược cho chiến trường miền Nam. Về mặt dân sự, năm 1969, ông kiêm chức Bộ trưởng Bộ Cơ khí luyện kim, năm 1972 là Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Tháng 9 năm 1974, Chủ nhiệm Tổng cục kỹ thuật. Năm 1975, ông là đại diện Quân ủy Trung ương và bộ Tổng tư lệnh, Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau năm 1975, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước. Năm 1976 là Bộ trưởng phụ trách Tổng cục dầu khí. Năm 1980, Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải. Năm 1982, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông qua đời ngày 20 tháng 1 năm 1987 do tai nạn giao thông. Ông được phong quân hàm Thiếu tướng tháng 4 năm 1974, Trung tướng năm 1984 và Thượng tướng tháng 12 năm 1986. Ông cũng được nhà nước Việt Nam tặng thưởng các Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng I, Huân chương Chiến thắng hạng I, Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, Huân chương Quân kỳ Quyết thắng. Ai Giết Thượng Tướng Công An Thi Văn Tám?
Hoàng Giang – ĐDCND
Ngày 12 tháng 12 năm 2008 ông Thi Văn Tám, Thượng tuớng công an, đặc trách về gián điệp đã bị đột tử. Mặc dù báo đài thông tin ông tướng Tám bị "bệnh chết" nhưng các thông tin mật và những sự kiện gần đây cho thấy ông Tướng Tám đã bị thanh toán chết. Có dư luận cho rằng trên chuyến công tác bay về lại thành phố, vừa đến nhà thì ông chết, vì uống nước bị thuốc độc trên máy bay. Tin khác cho biết ông Tướng Tám dự trù đi Thủ Đức và Bình Thuận để thăm trại giam, chuẩn bị cho màn trình diễn đặc xá tù đầu năm 2009. Trên đường đi thì bị giết, chuyến công tác phải đình hoãn và giao lại cho Thượng tướng Lê Thế Tiệm.
Việc tướng lãnh Công an gần đây bị đột tử do tranh giành quyền lực hoặc vì nhu cầu cần bịt đấu mối cũng không phải là điều ngạc nhiên. Trong giới công an, nhất là phiá Tổng Cục Tình Báo cũng đã thủ đắc nhiều phương tiện mờ ám, tài chánh và nhân sự chuyên nghiệp, nên ra tay hạ độc thủ chỉ là chuyện "thường ngày ở huyện".
Trước kia, đối với phiá quân đội, hàng loạt vụ thủ tiêu đã từng xảy ra. Cái chết của những Tướng như Hoàng Văn Thái, Chu Văn Vấn, Lê Trọng Tấn v.v.. đã làm cho tập thể tướng lãnh phải thần phục đảng CSVN qua cơ cấu quyền lực Tổng Cục 2 (TC2). Năm 1987, Lê Đức Anh đột nhiên lên nắm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng ngay sau cái chết mờ ám của đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Sau đó, Lê Đức Anh đã chỉ thị cho Trung tướng Phan Bình phải về hưu, giao toàn bộ Cục Quân Báo cho đàn em của Lê Đức Anh. Cục Quân Báo, tức Cục 2 đổi thành Tổng Cục 2 (TC2), vừa bàn giao lại nhiệm vụ thì Trung tướng Phan Bình cũng bị giết chết ngay.
Nhân Tướng Tám bị đột tử, đang trong vòng "nghi vấn", tưởng cũng nên nhắc lại sự kiện Trung tướng Phan Bình, Cục trưởng Cục An ninh Tình báo của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, đã bị giết chết bất đắc kỳ tử. Đêm 13 tháng 12 năm 1987, tại nhà nghỉ Cục 2, số 30 Lê Qúy Đôn, Saigon, khi Tướng Phan Bình từ Hà Nội vào Saigon để thăm viếng bạn bè, các đầu mối quen biết cũ, thì bị ám sát chết. Tướng Phan Bình cũng giống như Tướng Thi Văn Tám, cả hai đều nắm chuyên nghành tình báo. Có khác chăng là Tướng Bình thuộc quân đội và đã nghĩ hưu sau khi bàn giao hết các nhiệm vụ lại cho cục trưởng mới – Tư Văn, thì bị giết để bịt đầu mối mà theo dư luận cho rằng đây là đòn hạ thủ của Tổng Cục 2 (TC2).
Sau cái chết của Trung tướng Phan Bình, Tổng Cục 2 đã báo cáo lên TW đảng CSVN là vì "đồng chí Phan Bình bệnh tâm thần nên đã tự sát". Dù vậy, giới tình báo quân đội và nhiều lãnh đạo Đảng không thuộc cánh TC2 đều biết Trung Tướng Phan Bình đã bị giết, TC2 tạo dựng chứng cứ giả để bưng bít, lừa dư luận. Điều này, Trung tướng Quân đội, Uỷ viên Trung ương Đảng như Lê Văn Hiền, Thượng tướng Nam Khánh, Thượng tướng Nguyễn Minh Châu v.v… cũng đều xác nhận như vậy.
Theo báo cáo của TC2 thì "đồng chí" Phan Bình đã tự sát. Nhưng theo lời thuật của Tướng Nguyễn Minh Châu, tư lệnh quân khu 7 thì báo cáo đó không đúng sự thực. Trung tướng Phan Bình bị giết chết đêm 13 tháng 12 năm 1987, trong tư thế ngã sấp trước phòng khách, sát thủ bắn ngay đầu, toác một lỗ thủng rất rộng, chứng tỏ người bắn ở cự ly gần, quen biết và tiếp cận Tuớng Phan Bình rồi bất ngờ rút súng bóp cò nên Tướng Bình trở tay không kịp. Hơn nữa, sau khi bàn giao lại nhiệm vụ Cục trưởng Cục An ninh Tình Báo cho Tư Văn, Tướng Bình đã bị lấy lại súng ngắn, nhẽ ra ở cương vị của ông phải có súng để phòng thân. Điều này sát thủ đã được thông báo trước nên an tâm, ra tay gọn nhẹ.
An táng Thượng tướng Công an Thi Văn Tám (Hình Báo Công an).
Tàn bạo hơn nữa là sau khi Tướng Phan Bình bị giết, một tháng sau, con trai của ông, sỹ quan trong quân đội cánh quân báo, phát giác cái chết của cha mình do bị "ám sát" thì cũng chết một cách mờ ám khi bị ép đưa vào bệnh viện lý do "tâm thần". Như vậy, chỉ trong vòng một tháng, cả bố lẫn con Tướng Phan Bình bị giết chết với những thủ đoạn tàn ác, mờ ám và bất chấp dư luận. Cái chết của cha con Tướng Phan Bình đã làm cho cánh quân đội, nhất là sỹ quan cao cấp trong Cục An Ninh Tình Báo (Quân Báo) rúng động, hoảng sợ, gieo rắt không khí khủng bố bao trùm lên các lãnh đạo quân đội có liên hệ với Tướng Phan Bình.
Chính TC2 đã được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ký pháp lệnh tình báo và nghị định 96/CP, điều 21, chương 2 như sau: "Tổng cục tình báo (TC2) thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu hoặc các giấy tờ giao dịch của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, …" …. để hoàn thành nhiệm vụ của TC2 kể cả "ám sát".
Đối với ai còn xa lạ về vai trò, thế và lực của TC2 thì cũng nên nhắc laị, Tổng Cục 2 hay goi là TC2 nằm dưới quyền thống trị của Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, con trai Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh. TC2 với khả năng tài chánh vô hạn, gần bằng nửa ngân sách của Bộ Quốc Phòng, không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để đạt mục đích từ mua chuộc với các chức vụ có bổng lộc, gái, tham nhũng, hủ hoá v.v.. để khống chế cho đến đe doạ, sẳn sàng hạ thủ lấy tính mạng của đối thủ, không chỉ một người mà luôn cả gia đình, dòng họ.
TC2 là một tập đoàn có tính gia đình trị bao gồm cựu Tổng cục trưởng Trung tướng Vũ Chính, bố vợ của Nguyễn Chí Vịnh, Đại tướng Lê Đức Anh, là bố nuôi của Nguyễn Chí Vịnh. Vì vậy, nói đến TC2 tức là nói đến quyền lực của Lê Đức Anh, trải rộng ở trong quân đội và lan tràn ra các cơ quan Đảng khác như Bộ Công An, Bộ Ngoại Giao, Văn phòng Thủ Tướng, Chính phủ v.v…để cài cắm người, nắm tin tức tình báo và thi hành độc thủ khi cần.
Dưới chế độ CS, việc thủ tiêu, ám sát, đầu độc là chuyện nhỏ. Với chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện, đảng CSVN sẳn sàng làm bất cứ điều gì để đạt mục tiêu, không những đối với các chiển sĩ dân chủ mà ngay cả trong nội bộ của họ nữa. Không ai hiểu rỏ điều này bằng chính Lê Đức Anh, kẻ đã ra lệnh cho TC2 hạ thủ không biết bao nhiêu người. Vì vậy, khi Lê Đức Anh lên cơn đau tim phải đưa vào bệnh viện cấp cứu, Lê Đức Anh đã cương quyết không uống thuốc vì sợ có kẻ lén bỏ thuốc độc.
Đến nay, dư luận vẫn không giải thích được lý do tại sao Tướng Phan Bình bị giết? Ông đã nắm những thông tin gì có hại cho TC2 đến nổi vừa bàn giao xong nhiệm vụ cho Cục Trưởng mới thì bị Lê Đức Anh ra lệnh giết ngay. Đối với Thượng Tướng Công An Thi Văn Tám cũng vậy? Nhiều câu hỏi đặt ra qua cái chết đột tử của ông? Lý do gì Tướng Thi Văn Tám bị chết? Ai giết? tranh giành điều gì? Che đậy cái gì? TC2 hay thế lực nào khác?
Từ lâu, Bộ Công An và TC2 đã không ưa nhau, tranh dành quyền lực, ảnh hưởng và vây cánh, tìm cách hạ độc thủ nhau. TC2 đã nhiều lần chặt hết vây cánh của Bộ Công An, phải chăng lần này cũng là một đòn "tiên hạ thủ vi cường" của TC2 đối với Bộ Công An?
Việt Nam ngày 20 tháng 12 năm 2008 Hoàng Giang – ĐDCND Bị Giết Hay Bệnh Chết ? Ngày 15 tháng 12 năm 2008 đồng loạt các đài báo loan tin Thượng Tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Thi Văn Tám, phụ trách an ninh đã bị bệnh chết ngày 12 tháng 12 năm 2008. Thượng tướng Thi Văn Tám chết ngày 12, mãi đến 15, tức 3 ngày sau đài báo mới loan tin. Tất cả các thông tìn đều giống nhau “Thượng tướng Thi Văn Tám - Thứ trưởng Bộ Công an, vừa từ trần hồi 2 giờ ngày 12/12/2008 tại TPHCM . Sau một thời gian lâm bệnh, đồng chí đã được Đảng, Nhà nước, Bộ Công an, gia đình và các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng vì bệnh nặng, đồng chí đã từ trần hồi 2h00′, ngày 12/12/2008 (tức ngày 16/11 năm Mậu Tý) tại TP Hồ Chí Minh.”
Không có báo nào giải thích Tướng Tám bị chết vì bệnh gì ? bệnh bao lâu ? nằm bệnh viện nào ? Bác sĩ tuyên bố bệnh trạng trầm trọng ra sao ? và chết như thế nào ? Trước cái chết của Thượng tướng công an, cả trăm tờ báo đều loan tin giống nhau, đó là “sau thời gian lâm bệnh, dù được Đảng và nhà nước cho bác sĩ tận tâm cứu nhưng vì bệnh nặng nên đồng chí Tám đã từ trần”. Điều này có nghĩa là thông tin về cái chết của Thượng Tướng Thi Văn Tám đã được Bộ Công an chuyển ra báo chí để loan báo một cách rất hạn chế, mập mờ.
Một vị tướng làm tới chức Thượng Tướng, lại là tướng chuyên chống gián điệp thì ông ấy có lắm kẻ thù bên ngoài vì biết quá nhiều chuyện tối mật. Bên trong, ông ấy có thể bị đảng thanh trừng bất cứ lúc nào vì những tranh dành quyền lực, những bí ẩn “thâm cung bí sử” trong triều đại CS. Việc Tướng Thi Văn Tám đột tử vì nhiều nguyên do bí ẩn, ngoài lý do bị “bệnh nặng” như thông tin của Đảng, không loại trừ khả năng ông Thượng Tướng Thi Văn Tám bị Đảng cho thủ tiêu vì tranh dành quyền lực.
Ngày 12 tháng 12 năm 2008, Tướng Thi Văn Tám bị đột tử, chết không rỏ lý do. Thông tin Đảng nói chỉ vỏn vẹn là “đồng chí bị bệnh nặng”. Điều không bình thường là nếu Tướng Tám bị bệnh nặng, bệnh mãn tính và đã được đảng tận tâm điều trị thì Tướng Tám và gia đình phải biết ông bị bệnh gì ? bệnh trạng kéo dài bao lâu ? trước đó đã chửa trị, thuốc men như thế nào ? Bao nhiêu ngày tháng nằm bệnh viện, ở đâu ? bác sĩ điều trị chuẩn y ra sao v.v.. Rõ ràng cái chết của ông Thượng Tướng Thi Văn Tám là cái chết độc tử, mờ ám. Độc tử vì trước khi chết ông Tướng Tám đã rất khỏe, bình thường, phục vụ công tác Đảng CSVN đắc lực, đạt nhiều công trạng cho đảng nên đã được liên tục được thăng cấp. Tháng 2/2002, đồng chí Tám được thăng cấp bậc hàm Thiếu tướng; tháng 12/2004, được thăng cấp bậc hàm Trung tướng; tháng 12/2008, được thăng cấp bậc hàm Thượng tướng An ninh nhân dân. Đặc biệt, Tướng công an Thi Văn Tám là người đã ra lệnh an ninh triệt tiêu và đàn áp thẳng tay, đánh đập dã man các anh chị em hoạt động trong Phong trào Dân chủ.
Tháng 12 năm 2008 ông đã được Bộ Chính Trị thăng cấp Thượng tướng, nghĩa là chỉ trong vòng có hơn 10 ngày trước khi chết “đồng chí” Trung Tướng Thi Văn Tám còn được thăng cấp lên Thượng Tướng. Rà xét lịch trình làm việc của Thượng Tướng Tám cho thấy ông rất khỏe mạnh, không có dấu hiệu bị bệnh. Sinh năm 1948, Thượng tướng Thi Văn Tám còn trẻ và sức khoẻ để cống hiến cho Đảng. Ông đi công tác xa liên tục, không có thời gian nào bị gián đoạn. Như vậy suốt thời gian trước và sau khi phong cấp, ông Tướng Thi Văn Tám không có nằm bệnh viện, không có bi bệnh nặng đến nỗi bác sĩ tài giỏi của Đảng CSVN phải bó tay như thông tin Đảng loan báo.
Ngày 26 tháng 10 năm 2008, Trung tướng Thi Văn Tám đã xuống tận Kiên Giang để tham dự cuộc họp với Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Campuchia. Những lãnh đạo an ninh cộng sản tham dự phiên họp quan trong này bên cạnh ông Thi Văn Tám còn có cả Đại tướng Lê Hồng Anh, Bộ trưởng Bộ Công An và Thứ trưởng công an, Trung tướng Lê Thế Tiệm.
Ngày 14/11 năm 2008, Trung tướng Tám đã đi công tác xa đến tận Đắc Lắc để đón nhận huân chương Hồ Chí Minh trao tặng cho công an tỉnh này. Ông không những vượt đường sá xa xôi, chỉ đến cho có mặt mà còn phát biểu nữa. Như vậy Tướng Tám không có dấu hiệu suy yếu, sức khỏe có vấn đề, thậm chí còn khỏe hơn bình thường. Các báo đảng đã loan tin chuyến thăm Đắc lắc như sau: “Thừa ủy quyền Chủ tịch nước, Trung tướng Thi Văn Tám, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an đã gắn Huân chương Hồ Chí Minh lên lá cờ truyền thống vẻ vang của Công an Đắk Lắk, đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Thi Văn Tám nhiệt liệt biểu dương những thành tích đặc biệt xuất sắc mà cán bộ, chiến sỹ Công an Đắk Lắk đạt được trong thời gian qua, đã vô hiệu hóa mọi âm mưu phá hoại của các thế lực phản động, phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm, xây dựng lực lượng CAND ngày càng trong sạch, vững mạnh.”
Ngày 19 tháng 11 năm 2008, Trung tướng Thi Văn Tám, tháp tùng cùng các vị quan chức an ninh trong Bộ Công An đã xuống tận các tỉnh phiá Nam, đồng bằng sông Cửu Long để tham dự lễ lỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20 -11-08.
Các nhà dân chủ trẻ là nạn nhân của tướng CS Thi Văn Tám.
Tháng 12 năm 2008 sau khi thăng chức từ Trung Tướng lên Thượng Tướng thì vài ngày sau ông bị chết “bắc đắc kỳ tử”. Trước đó, từ năm 2006 đã có thư tố cáo Trung tướng Thi Văn Tám, người tố cáo ký tên Phạm Gia Khánh, tự xưng là cán bộ trong Tổng cục an ninh, gửi đích danh các Uỷ viên Chính trị bộ như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Lê Hồng Anh v.v… Bức thư tố ông Tướng Thi Văn Tám có lý lịch bất minh …“Trong quá trình công tác, ông Thi Văn Tám luôn tìm cách che giấu lý lịch về nguồn gốc xuất thân, quá trình hoạt động của người cha. Ngay từ khi còn trai trẻ, mỗi khi anh em, bạn bè trong Tổng cục An ninh tại TP. Hồ Chí Minh hỏi về người cha thì ông Thi Văn Tám luôn tìm cách lảng tránh, không trả lời. Khi tổ chức yêu cầu, ông luôn khai báo chung chung và không muốn ai biết về lý lịch của mình. Cho đến nay, cũng chưa có ai xác dịnh rõ việc che giấu lý lịch của Thi Văn Tám là nhằm động cơ gì, nhưng rõ ràng là có uẩn khúc, mà chúng ta đã có những bài học đắt giá khi sử dụng người mà không tìm hiểu kỹ về lý lịch để gây ra những hậu quả khôn lường. Tôi được biết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa IX nhiều lần không đồng ý bổ nhiệm ông Thi Văn Tám vào chức Thứ trưởng Bộ Công an. Thế nay đột nhiêu ông Thi Văn Tám được bổ nhiệm vầo chức vụ này, làm cho anh em cán bộ Tổng cục An ninh nghỉ hưu tại TP. Hồ Chí Minh rất bức xúc, trăn trở, lo lắng vận mệnh an ninh của đất nước lại trao cho một người hoàn toàn không xứng đáng về đạo đức, tài năng.”
Bức thư cũng tố cáo ông Tướng Thi Văn Tám tham nhũng “đã đưa rất nhiều dự án về cục A35, trị giá nhiều tỷ đồng, rồi ông trực tiếp phụ trách. Những dự án đó đã được ông Thi Văn Tám khoác cho những tấm áo vì yêu cầu nghiệp vụ, nên không chịu bất cứ sự ràng buộc, giám sát nào, nên ông ta mặc sức sử dụng vào nhu cầu cá nhân. Tôi được biết, ông đang sở hữu một ngôi nhà lớn ở TP. Hồ Chí Minh. Có doanh nghiệp khi biết ngôi nhà đó của ông Tổng cục trưỏng Tổng cục An ninh đã thuê với giá trên 20.000 USD/tháng, mặc dù giá trị thực tế không thể đến mức đó.”
Bức thứ tố Tướng Thi Văn Tám, theo dư luận tiết lộ là do tranh giành ảnh hưởng trong nội bộ nên cán bộ an ninh, thuộc Bộ Công An nhận lệnh viết thư tố cáo nhằm làm giảm uy tín của Tướng Thi Văn Tám, vì ông Tám là cánh tay mặt của Thứ trưởng Bộ công an, tướng Nguyễn Khánh Toàn. Như vậy cái chết độc tử của ông Thượng Tướng Thi Văn Tám ngày 12 tháng 12 năm 2008 có thể là do nội bộ thanh toán. Hoặc Tướng Nguyễn Khánh Toàn ra tay cho bịt miệng đầu mối, hay Thứ trưởng Bộ Công an, Tướng Nguyễn Văn Hưởng cho đàn em chặt tay chân, vây cánh của tướng Toàn do hai bên từ lâu đã có thù nghịch, tranh dành ảnh hưởng, ngắm nghiá cái ghế Bộ Trưởng Bộ Công An ? Hay do chính các thế lực ngoại bang nào khác ?
Ở tuổi 60, công trạng đầy mình, cống hiến cho Đảng cả cuộc đời cũng như gây biết bao tội ác, tai hoạ cho lực lượng dân chủ. Tướng Thi Văn Tám nếu không bị Đảng giết sớm vì tranh dành quyền lực thì cũng sẽ phải ra tòa án công luận, trả lời về những tội lổi từng gieo rắt đối với Phong Trào Dân chủ Việt Nam. Thực là Ác lai, Ác báo, mới vừa được Đảng phong chức Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an hôm trước, hôm sau bị giết ngay. Cái chết bí ẩn của Thượng Tướng Thi Văn Tám chỉ có đảng CSVN mới có câu trả lời.
Việt Nam ngày 16 tháng 12 năm 2008
Phùng Chí Kiên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia | Thông tin trong bài (hay đoạn) này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. Nếu không, những câu hay đoạn văn không có chú giải nguồn gốc có thể bị thay thế hoặc xóa đi bất cứ lúc nào. | Phùng Chí Kiên (1901-1941) Phùng Chí Kiên (1901 - 1941), là nhà hoạt động cách mạng và quân sự Việt Nam. [sửa] Xuất thân Ông có tên khai sinh là Nguyễn Vĩ, còn có tên khác là Mạnh Văn Liễu. Sinh năm 1901 tại làng Mỹ Quan, tổng Vạn Phần (nay là xã Diễn Yên), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Tuy nhà nghèo, nhưng ông vẫn được cha mẹ cho đi học sớm. Năm 1925, Phùng Chí Kiên ra làm thuê cho một thương nhân người Hoa ở ga Yên Lý, thuộc huyện Diễn Châu, nằm trên tuyến đường sắt Hà Nội-Sài Gòn. [sửa] Ra nước ngoài học tập và hoạt động Thời gian này, Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) đã cử cán bộ về Nghệ Tĩnh hoạt động. Nhiều thanh niên, học sinh ở đây được giác ngộ và đưa sang Quảng Châu học tập. Tháng 10 năm 1926, Phùng Chí Kiên cùng một số hội viên được giới thiệu sang Quảng Châu, dự lớp huấn luyện đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. Năm sau, Tưởng Giới Thạch quay ra khủng bố cộng sản, nhà trường bị đóng cửa. Phùng Chí Kiên cùng với một số cán bộ Việt Nam gia nhập quân cộng sản và tham gia khởi nghĩa Quảng Châu (ngày 12 tháng 12 năm 1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, làm Đại đội trưởng Hồng quân công nông Trung Quốc. Cuộc bạo động thất bại, quân cách mạng rút về xây dựng khu Xô-viết ở hai huyện Hải Phong và Lục Phong. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Tháng 2 năm 1931, được sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, Phùng Chí Kiên sang học trường đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Nhưng khi đến Mãn Châu, ông bị phát xít Nhật bắt giam gần một năm. Ra tù, Phùng Chí Kiên đổi tên là Can rồi tiếp tục lên đường sang Liên Xô học. Từ năm 1933 đến năm 1934, ông học tại Trường Đại học Phương Đông ở Mạc Tư Khoa. Năm 1934, ông về Hương Cảng, tham gia Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, cùng Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất tổ chức tại Áo Môn (Trung Quốc) vào năm 1935; được Đại hội bầu vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài. Năm 1936, ông về Sài Gòn hoạt động cùng Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước theo tinh thần nghị quyết hội nghị lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản và Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 16/7/1936, nhằm đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình. Năm 1937, ông sang Hương Cảng công tác với tấm thẻ căn cước mang tên Phùng Nguôn Vĩnh, sau bị cảnh sát Anh bắt và trục xuất. Năm 1938, ông tham gia củng cố Ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ở nước ngoài và xuất bản báo “Đồng thanh” ở Côn Minh (Trung Quốc). Đầu năm 1940, Phùng Chí Kiên hoạt động với Nguyễn Ái Quốc ở Côn Minh và nhiều lần đưa Nguyễn Ái Quốc đến các nơi như Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn, Chi Thôn... thuộc tỉnh Vân Nam. Tháng 6-1940, ông cùng Nguyễn Ái Quốc về Tĩnh Tây, một thị trấn thuộc tỉnh Quảng Tây giáp biên giới Trung Quốc-Việt Nam để chuẩn bị về nước khi có thời cơ. Cuối năm 1940, ông tham gia huấn luyện 40 cán bộ cốt cán của Việt Nam tại Quảng Tây (Trung Quốc). [sửa] Về Việt Nam Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Phùng Chí Kiên cùng Hồ Chí Minh về Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Ông tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi. Ông tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 năm 1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương; được cử trực tiếp tổng chỉ huy Khu căn cứ Bắc Sơn, thành lập và chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân 1, tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn. [sửa] Chống càn và qua đời Cuối tháng 6-1941, thực dân Pháp huy động tới 4.000 quân [cần dẫn nguồn], tổ chức thành ba mũi tấn công mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ Việt Minh nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của Việt Minh và lực lượng vũ trang Việt Minh mới hình thành. Các cơ sở bí mật của Trung ương và Cứu quốc quân bị uy hiếp nghiêm trọng. Trong cuộc họp khẩn cấp tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ), Ban chỉ huy Cứu quốc quân quyết định cử một tổ bảo vệ và dẫn các cán bộ lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản qua Tràng Xá về xuôi an toàn. Phùng Chí Kiên chỉ huy đội Cứu quốc quân Bắc Sơn chiến đấu anh dũng, phá một số trận càn lớn của Pháp và lực lượng theo Pháp. Do chênh lệch lực lượng và vũ khí, Ban lãnh đạo căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định để lại một tiểu đội chặn đối phương, còn hai tiểu đội phá vòng vây, rút lên Cao Bằng để bảo toàn lực lượng. Ngày 19 tháng 8 năm 1941, cánh quân của Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri qua Pò Kép (châu Na Rì, Bắc Kạn) thì bị đối phương phục kích nhưng thoát được. Ngày 21 tháng 8, đơn vị lại bị phục kích và bị bao vây tại xã Bằng Đức trên đường đi Cao Bằng. Lương Văn Tri bị thương rồi hy sinh. Mặc dù bị thương nặng, Phùng Chí Kiên vẫn bắn chặn quân đối phương để đồng đội thoát khỏi vòng vây. Bắn hết viên đạn cuối cùng, ông bị đối phương bắt. Ngày 22 tháng 8 năm 1941, đối phương chặt đầu ông rồi đem cắm ở đầu cầu Ngân Sơn để hòng uy hiếp tinh thần cán bộ, nhân dân địa phương. Hơn 62 năm sau, tháng 11 năm 2003, Phùng Chí Kiên được Đảng, Chính phủ Việt Nam ra quyết định phong là cán bộ quân đội cấp tướng. Tháng 5 năm 2008, một phần hài cốt (phần đầu) ông do nhân dân huyện Ngân Sơn mai táng trước đây, đã được tìm thấy tại tiểu khu 1, thị trấn Vân Tùng, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn[1]. Tên của ông được đặt cho một con đường lớn ở Thủ đô Hà Nội.
Tìm thấy hài cốt đồng chí Phùng Chí Kiên | Chủ nhật, 11/05/2008, 02:12 (GMT+7) | Vừa qua, đoàn tìm kiếm của Bộ Quốc phòng và gia đình tìm thấy một phần hài cốt của đồng chí Phùng Chí Kiên tại tiểu khu 1, thị trấn Vân Tùng, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Đồng chí Phùng Chí Kiên, tên thật là Nguyễn Vĩ, sinh năm 1901 tại xã Diễn Yên (Diễn Châu, Nghệ An). Đầu năm 1941, đồng chí hoạt động bên cạnh Bác Hồ và góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ khu căn cứ Pắc Bó (Cao Bằng). Ngày 21-8-1941, đơn vị do đồng chí chỉ huy bị địch phục kích tại xã Bằng Đức (huyện Ngân Sơn). Đồng chí Phùng Chí Kiên bị thương nặng nhưng vẫn gắng sức bắn chặn để đồng đội rút khỏi vòng vây. Bắn hết viên đạn cuối cùng đồng chí sa vào tay giặc. Thực dân Pháp tra tấn dã man nhưng đồng chí Phùng Chí Kiên vẫn một lòng kiên trung, không khuất phục kẻ thù. Khi đồng chí bị thương nặng, đã bị giặc mang phơi ngoài trời mưa lạnh cho đến khi đồng chí trút hơi thở cuối cùng. Sau đó, chúng hèn hạ chặt đầu đồng chí đem bêu ở cầu Ngân Sơn. Năm ấy, đồng chí vừa tròn 40 tuổi. Tháng 11-2003, Trung ương Đảng, Chính phủ đã ra quyết định công nhận đồng chí Phùng Chí Kiên là “Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng khóa I, cán bộ lãnh đạo quân đội cấp Tướng, liệt sĩ hy sinh anh dũng trong chiến đấu”. Phần hài cốt tìm được lần này chính là phần đầu của đồng chí Phùng Chí Kiên do nhân dân huyện Ngân Sơn mai táng trước đây. Ngày 8-5, tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng số 5 Trần Thánh Tông - Hà Nội, UBND tỉnh Bắc Kạn đã tiến hành bàn giao hài cốt của đồng chí cho Bộ Quốc phòng. Chu Văn Tấn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Chân dung Thượng tướng Chu Văn Tấn (1910–1984) Thượng tướng Chu Văn Tấn (1910–1984) là một tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là một trong 9 Thiếu tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được phong năm 1948 và cũng là một trong 2 Thượng tướng đầu tiên. [sửa] Tiểu sử Ông có bí danh là Tân Hồng, người dân tộc Nùng, quê xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Khi trước ông là châu đoàn coi lính dõng cho Pháp, về sau ông theo Việt Minh. Năm 1934, ông tham gia xây dựng phong trào cách mạng và chỉ đạo chiến tranh du kích ở Tràng Xá, Võ Nhai, Bắc Sơn. Năm 1936, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 2 năm 1941, ông là Xứ ủy viên Bắc Kỳ, tham gia thành lập và chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn (sau đó là Đội Cứu quốc quân 1). Tháng 9 năm 1941, ông là Trung đội trưởng Cứu quốc quân 2. Năm 1944, ông chỉ huy Cứu quốc quân 2 và Chiến khu Hoàng Hoa Thám. Tháng 8 năm 1945, ông tham gia Ban lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ lâm thời từ cuối tháng 8 năm 1945 đến ngày 2 tháng 3 năm 1946. Sau đó ông được cử là phái viên của chính phủ đi kiểm tra Khu 4. Năm 1948, ông làm Khu trưởng Khu 4 rồi Chiến khu 1, Bí thư khu ủy. Cùng năm này, ông được phong quân hàm Thiếu tướng cùng với 10 tướng lĩnh khác trong đợt phong hàm đầu tiên. Từ năm 1949 đến năm 1954, ông làm Khu trưởng, Bí thư khu ủy Liên khu Việt Bắc, Chánh án Tòa án Quân sự, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc. Từ năm 1954 đến cuối năm 1956, ông làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư quân khu ủy Liên khu Việt Bắc. Từ năm 1957 đến cuối năm 1975, ông làm Chính ủy, Bí thư khu ủy Quân khu Việt Bắc, Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc. Năm 1959, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ Thiếu tướng lên Thượng tướng và là một trong hai Thượng tướng lúc bấy giờ. Năm 1976, ông được bầu làm Phó chủ tịch Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Tuy nhiên, không lâu sau đó, quan hệ Việt - Trung trở nên căng thẳng và xấu đi nhanh chóng, cao điểm là việc Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan trốn sang Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt - Trung vào năm 1979. Ông cũng bị liên lụy, bị mất hết các chức vụ, bị cô lập chính trị, thậm chí bị giam lỏng nhưng không công bố. Từ đó ông bị quản thúc, xa gia đình cho đến ngày qua đời. Sau này ông được phục hồi danh dự cũng không công khai như khi bị trù dập. Ông được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa III đến khóa VI; Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông cũng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa II và III; đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VI. Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Quân công hạng ba, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.
Nguyễn Sơn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Chân dung "Lưỡng quốc Tướng quân" Nguyễn Sơn (1908-1956) Nguyễn Sơn (1908–1956) là một trong những người Việt Nam được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên còn được gọi là Lưỡng quốc tướng quân (Tướng quân hai nước). [sửa] Ngày sinh và ngày mất Đa số các tư liệu đều ghi ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1908 và mất ngày 21 tháng 10 năm 1956. Ngày 21 tháng 10 năm 2006, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã tổ chức Lễ tưởng niệm 50 năm ngày mất của ông. Tại lễ này, ngày sinh của ông được ghi là 1 tháng 10 năm 1908. [sửa] Tuổi trẻ Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Nguyên Bác, quê tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là con cụ Vũ Trường Xương, một nhà đại tư sản ở Hà Nội. Khi mới lên 5 tuổi ông đã bắt đầu học tiếng Pháp tại một trường Dòng ở Hà Nội. Mười bốn tuổi ông thi đậu vào Trường Sư phạm Hà Nội [cần dẫn nguồn]. Tính tình nghịch ngợm, cùng với tinh thần chống Pháp được gia đình truyền thụ, ông thường tổ chức học sinh trường Sư Phạm và trường Bảo Hộ sang đánh nhau với học sinh con Tây tại các trường khác. Để khống chế sự nghịch ngợm của ông, cha mẹ ông đã cho ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giệm, hơn ông bốn tuổi. Sau khi được Nguyễn Công Thu ( người của Nguyễn Ái Quốc cử về Việt nam) giác ngộ, ông bày trò giả vờ uống rượu say, gây sự với bố vợ để lấy cớ bỏ người vợ trẻ cùng cô con gái mới 6 tháng tuổi là Vũ Thanh Các để ra đi. [sửa] Tham gia cách mạng ở Trung Quốc Năm 1925, ông theo Nguyễn Công Thu đến Quảng Châu. Ông được nhập vào gia đình họ Lý của Lý Thụy (Hồ Chí Minh), gồm Lý Tống (Phạm Văn Đồng), Lý Tự Trọng, Lý Quý (Trần Phú), Lý Trí Phương (Nguyễn Thị Minh Khai) và một số người khác. Ông được Hồ Chí Minh đặt tên cho là Lý Anh Tự và được học lớp chính trị khóa hai cùng Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan. Tại đây, Vũ Nguyên Bác gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đầu năm 1926, ông được cử đi học Trường Sĩ quan Hoàng Phố cùng với Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng. Trong thời gian học, ông gia nhập Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Tháng 4 năm 1927, Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo làm chính biến, đàn áp Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Ông bỏ khỏi hàng ngũ Quốc Dân Đảng, gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 8 năm 1927. Tháng 12 năm 1927, ông tham gia khởi nghĩa Quảng Châu, gia nhập Đoàn giáo đạo 4, Phương diện quân số 2 do Diệp Kiếm Anh chỉ huy. Sau ba ngày chiến đấu, cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị lộ là đảng viên cộng sản. Để tránh khủng bố trắng, ông phải rời Quảng Châu sang Thái Lan và tổ chức Việt kiều tham gia cách mạng. Năm 1928 ông trở lại Trung Quốc, tham gia Hồng quân(红军). Năm 1929, ông giữ chức vụ chính trị viên đại đội trong Trung đoàn 47, chỉ huy đại đội đánh nhiều trận ở Đông Giang. Trong thời gian này ông đổi tên mới là Hồng Thủy (洪水). Ông là sĩ quan người nước ngoài duy nhất của Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc, từng làm Chính ủy trung đoàn, Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 34 thuộc Quân đoàn 12 công nông Trung Quốc. Do có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và trình độ lý luận, ông được điều động đến giảng dạy tại Trường Quân sự chính trị Trung ương của Hồng quân mới được thành lập ở Thụy Kim. Cuối năm 1932 ông còn tham gia thành lập đoàn kịch đầu tiên của Hồng quân công nông và làm Đoàn trưởng. Tháng 1 năm 1934, tại đại hội đại biểu toàn quốc nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa lần thứ hai, Hồng Thủy được bầu là Ủy viên ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa với tư cách là đại biểu "dân tộc ít người", Ủy viên Chính phủ dân chủ công nông ở Khu Xô viết Trung ương. Do đường lối tả khuynh thắng thế trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong thời kỳ 1933-1938 ông đã từng ba lần bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc, rồi lại được phục hồi đảng tịch. Tháng 10 năm 1934, ông tham dự cuộc Vạn lý trường chinh. Thời gian này, ông bị Trương Quốc Đào vu cáo là "gián điệp quốc tế", bị khai trừ khỏi Đảng và suýt bị giết hại. Ông may mắn được Chu Đức và Lưu Bá Thừa che chở nên thoát nạn. Hồng Thủy là người Việt Nam duy nhất đã đi hết cuộc Vạn lý trường chinh của Hồng quân. Tháng 12 năm 1935, ông về đến Diên An sau nhiều ngày bị lạc. Tiếp đó ông được vào học khóa một Trường Đại học Hồng quân Trung Quốc tại Ngõa Gia Bào, Thiểm Bắc (sau chuyển về Bảo An, Thiểm Tây), trực tiếp nghe Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai giảng bài. Tháng 7 năm 1937, bắt đầu thời kỳ chiến tranh chống Nhật, ông theo Tổng tư lệnh Chu Đức cùng sư đoàn 115 Bát Lộ Quân vượt sông Hoàng Hà đến Sơn Tây lập căn cứ chống Nhật ở Ngũ Đài Sơn. Ông được bổ nhiệm làm bí thư khu ủy Đông Dã, Trưởng ban tuyên truyền địa ủy Đông bắc Sơn Tây. Tại Ngũ Đài Sơn, năm 1938 ông đã gặp và kết hôn với bà Trần Kiếm Qua, (tên thật là Trần Ngọc Anh, tên Kiếm Qua do chính ông gợi ý đổi cho bà). Ông bà sinh được hai người con trai, không kể một người con gái mất sau khi mới một tuần tuổi. Cũng tại Ngũ Đài Sơn, vì phản đối Diêm Tích Sơn, một "lãnh chúa" ở Sơn Tây, ông bị vu oan, lần thứ ba bị khai trừ Đảng, chuyển về trường Quân chính Hồng quân. Cuối năm đó Hồng Thủy được khôi phục Đảng tịch. Năm 1938 ông được giao đảm nhận chức Tổng biên tập báo Kháng Địch biên khu Tấn Sát Ký. Tháng 2 năm 1939 ông được điều về làm Phó Chủ nhiệm Khoa giáo dục chính trị tại Phân hiệu 2 Đại học kháng Nhật ở Hàn Tín Đài, Linh Thọ, Hà Bắc, Trung Quốc. [sửa] Về Việt Nam và được phong tướng Tháng 11 năm 1945, ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy tên mới là Nguyễn Sơn và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Ông từng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Miền Nam Việt Nam (từ tháng 12 năm 1945 đến khi giải thể vào tháng 12 năm 1946), Tư lệnh kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi (1946), Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng tham mưu (1947), Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4 (1948-1949). Năm 1947, ông được tin bà Trần Kiếm Qua và hai con trai của ông chết do bị máy bay Quốc Dân Đảng oanh tạc khi sơ tán khỏi Diên An. Ông cưới bà Huỳnh Thị Đổi. Hai người sinh được cô con gái Nguyễn Mai Lâm, do nhiều nguyên nhân hai người đã chia tay. Cũng trong năm này, ông kết hôn với bà Lê Hằng Huân[1]. Ông có 4 người con với bà: Nguyễn Thanh Hà, Nguyễn Cương, Nguyễn Việt Hồng và Nguyễn Việt Hằng. Trong đó bà Nguyễn Thanh Hà học tại Học Viện KTQS ra trường công tác tại Bộ tư lệnh Thông tin và về hưu với quân hàm trung tá. Bà Nguyễn Việt Hồng thì mắc bệnh tâm thần được điều trị dài hạn tại bệnh viện. Năm 1948, ông được Nhà nước Việt Nam phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Cùng được phong Thiếu tướng trong đợt này có 8 quân nhân khác. Khi biết mình được vinh dự ấy, ông nghĩ mình còn trẻ, mới 39 tuổi đóng góp chưa nhiều, nên dành tiêu chuẩn ấy cho các đồng chí khác. Vì đường sá xa xôi, không đến được tận nơi trình bày với Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông gửi công văn hỏa tốc trình bày mong muốn của mình. Nhận được công văn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên tấm các của mình: “Tặng Sơn đệ” với 12 chữ Hán: “Đảm dục đại, tấm dục tế, trí dục viên, hạnh dục phương”[2](đại ý: cái gan cần phải lớn; cái tâm nên tế nhị, chín chắn; cái trí phải suy nghĩ trước sau, toàn diện; cái đức hạnh phải đầy đủ, ngang thẳng) khiến ông chịu phục. Thứ trưởng Phạm Ngọc Thạch thay mặt Chính phủ vào tận Thanh Hóa làm lễ tấn phong ông. [sửa] Trở lại Trung Quốc và được phong tướng Năm 1950, ông trở lại Trung Quốc công tác, làm Phó Cục trưởng Cục điều lệnh Tổng giám bộ huấn luyện Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Được xem là một trong 72 đại công thần Trung Quốc, ngay trong đợt phong quân hàm đầu vào ngày 27 tháng 9 năm 1955, ông được nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phong quân hàm Thiếu tướng. Ông cũng được chính phủ Trung Quốc tặng Huân chương Giải phóng hạng nhất. Ông được mệnh danh là "Lưỡng quốc tướng quân", là người Việt Nam duy nhất được phong quân hàm tướng của hai quốc gia, và đều ngay trong đợt phong quân hàm đầu tiên. [sửa] Về với quê hương Năm 1956, do khối u ác tính nằm bên phổi trái, ông xin trở về quê hương. Ông rời Bắc Kinh ngày 27 tháng 9, được Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh và nhiều tướng lĩnh, cán bộ cao cấp Trung Quốc ra ga tiễn và về đến Hà Nội ngày 30 tháng 9. Ông mất tại Hà Nội sau đó không lâu. Viết về ông có hồi ký Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình của bà Trần Kiếm Qua. Cuốn này đã được dịch ra tiếng Việt, nhan đề Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương. [sửa] Chú thích - ^ Bà là con ruột của nhà văn Sở Cuồng Lê Dư, em ruột nữ sĩ Hằng Phương, em vợ của nhà văn Vũ Ngọc Phan.
- ^ Báo điện tử Quân đội nhân dân - http://www.qdnd.vn/qdnd/qdndcuoituan.tulieuphongsu.4015.qdnd
|
 | Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn (1/10/1908 – 21/10/1956). | |
|
| "Lưỡng quốc tướng quân" Nguyễn Sơn Tướng Nguyễn Sơn, còn gọi là Vũ Nguyên Bác, sinh tại Hà Nội năm 1908, tên thời trẻ là Hồng Tú (chim hồng hạc trên núi cao), Hồng Thủy (nước lũ). Ông đã từng tham gia Vạn Lý Trường Chinh gian khổ và anh hùng của Hồng quân Trung Quốc. Với đầu óc thông minh sẵn có, nói năng sắc sảo, chịu khó học hỏi, nói tiếng Trung Quốc như người Trung Quốc uyên thâm, mang theo thể lực của cả hai dân tộc Trung Hoa và Việt Nam đã từng đánh Đông, dẹp Bắc, được Chính phủ và nhân dân Trung Quốc bầu là Ủy viên Ban Chấp Trung ương nước Cộng hòa Xôviết Trung Hoa do Mao Trạch Đông làm Chủ tịch. Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đánh giá, ông là người có tiềm năng văn võ song toàn, là người chỉ huy quân sự tài ba, là người hoạt động văn hóa xuất sắc, đã từng đảm nhận chức Tổng Biên tập tờ "Kháng địch báo", Tổng Biên tập Tạp chí "Huấn luyện chiến đấu" của Quận ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đoàn trưởng Đoàn kịch đầu tiên trong lịch sử quân đội Trung Quốc. Với cống hiến của ông, Chính phủ Trung Quốc đã phong cho ông quân hàm Thiếu tướng, người nước ngoài duy nhất được phong hàm tướng của Trung Quốc. Trong bộ sách "Truyện ba trăm danh tướng của Trường Quân sự Hoàng Phố" do Vương Vĩnh Quân công tác ở Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng chủ biên, Nhà xuất bản nhân dân Quảng Tây xuất bản tháng 6/1989. Trong cuốn sách này, Trung Quốc đánh giá cao về cuộc đời và binh nghiệp của tướng Nguyễn Sơn. Theo tư liệu trong sách ghi lại, tên thật của tướng quân là Võ Nguyên Bác, thuộc dòng họ Võ (Vũ) Hải Dương, tên đi học là Nguyễn Sơn. Thời trẻ ông đã từng du học ở Pari, Pháp. Đầu năm 1925, ông từ Việt Nam sang Quảng Châu được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu, ông tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Châu và vào học khóa 4 Trường Quân sự Hoàng Phố. Mùa hè năm 1925, Hồ Chủ tịch mở lớp cán bộ thanh niên cách mạng Việt Nam, ông đã tham gia lớp học này. Trong thời gian học tập, ông gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội", trở thành một trong những đảng viên sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 8/1927, Nguyễn Sơn gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 12/1927, Nguyễn Sơn tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu do Trương Thái Lôi, Diệp Đinh… lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Sơn chuyển sang Thái Lan làm công tác kiều vận. Năm 1929, lần thứ 2, Nguyễn Sơn lại đến Quảng Châu, tham gia vào cuộc vũ trang do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, nhận chức vụ Chính ủy Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Hồng quân số 48. Khi Quân đoàn Hồng quân 12 thành lập, Nguyễn Sơn lần lượt giữ các chức vụ Chính ủy Trung đoàn, Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 34. Năm 1932, Nguyễn Sơn là Trưởng khoa Tuyên truyền, kiêm giáo viên chính trị văn hóa của Trường Quân sự Trung ương. Sau đó, ông tham gia thành lập Đoàn Kịch Công nông, đoàn kịch đầu tiên trong lịch sử Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc do ông làm Trưởng đoàn. Tháng 1/1934, trong Đại hội Đại biểu công nông binh toàn quốc lần thứ 2, Nguyễn Sơn được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương nước Cộng hòa Xôviết Trung Hoa. Năm 1934, Hồng quân Trung Quốc mở cuộc trường chinh lịch sử hai vạn dặm, ông lại tích cực tham gia với cương vị Ủy viên đoàn cán bộ Quân ủy Trung ương. Trong cuộc trường chinh kháng Nhật, Nguyễn Sơn đảm nhận các chức vụ Chủ nhiệm Ban Chấp hành Hội Lao động khu bốn huyện Ngũ Điều, Trưởng ban Tuyên truyền Đảng ủy Đảng Cộng sản Trung Quốc khu Tiến Đông Bắc (cấp hành chính giữa huyện và tỉnh); Tổng Biên tập tờ "Kháng địch báo"; Trưởng ban Tuyên truyền Liên khu Tiến Sát ký (quân khu gồm 3 tỉnh Sơn Tây, Cáp Nhĩ Tân và Hồ Bắc). Năm 1945, thực dân Pháp mở rộng chiến tranh hòng đánh chiếm nước ta lần nữa. Qua thương lượng giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam, qua trao đổi giữa Mao Chủ tịch và Hồ Chủ tịch, với lòng yêu nước, yêu quê hương, Nguyễn Sơn trở về Việt Nam tiếp tục chiến đấu. Khi quân Pháp theo chân quân Anh vào Sài Gòn để giải giáp quân Nhật, đánh chiếm Sài Gòn và miền Nam nước ta. Trước tình hình đó, Hồ Chủ tịch đã cử tướng Nguyễn Sơn làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ và sau khi quân Pháp đã tiến ra đánh chiếm miền Nam Trung Bộ, Hồ Chủ tịch lại cử ông làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Trung Bộ để ông vừa chỉ huy tác chiến, vừa nghĩ kế lâu dài là đào tạo cán bộ cho quân đội nên ông lập ra Trường Quân chính Quảng Ngãi. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, GS. Nhà giáo nhân dân, Giải thưởng Hồ Chí Minh, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Quốc phòng đã từng chiến đấu bên tướng Nguyễn Sơn thời kỳ đó có ghi lại: "Tướng Nguyễn Sơn (Vũ Nguyên Bác) là người chỉ huy có tài năng. Ông có nhiều tài năng, có tài chỉ huy chiến đấu và có tài về huấn luyện quân sự, có tài về công tác chính trị, văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân tộc cổ truyền. Vừa vào thay thế ông ở Quân khu 4, tôi đã học được ở ông về công tác huấn luyện quân sự. Đó là "Đại hội luyện quân lập công". Đây là sáng kiến rất mới về công tác chính trị trong huấn luyện quân sự. Sau đại hội đó, bộ đội Quân khu 4 đã tiến một bước mới về huấn luyện và tinh thần hăng say học tập và học tập có chương trình sát với thực tế chiến đấu. Ông luôn giáo dục mọi người tinh thần quyết tâm chiến đấu để bảo vệ nền độc lập tự do vừa mới giành được. Ông có tài diễn thuyết. Ông có kinh nghiệm phong phú về trường đời, lão luyện về cuộc sống. Bài diễn thuyết của ông bao giờ cũng thấm vào lòng người. Hễ Nguyễn Sơn nói chuyện là mọi người hào hứng, im lặng để nghe…". Trong thời gian đó, về mặt chiến lược quân sự, Bộ Chỉ huy của ta đặt ra hai hướng ép vào đồng bằng Bắc Bộ. Một hướng ép từ Thanh - Nghệ - Tĩnh. Một hướng ép từ Chí Linh - Đông Triều, tướng Nguyễn Sơn chỉ huy một hướng. Năm 1950, thông qua thương lượng giữa Hồ Chủ tịch và lãnh đạo Trung Quốc, Nguyễn Sơn lại đến Trung Quốc lần thứ 3. Sau một thời gian học tập tại Học viện Quân sự Nam Kinh, Nguyễn Sơn đảm nhiệm các chức vụ Phó Cục trưởng Cục Điều lệnh Bộ Tổng giám huấn luyện của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, Tổng Biên tập "Tạp chí huấn luyện chiến đấu" của Quận ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 5/1955, được phong hàm Thiếu tướng, người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Trung Quốc phong hàm. Mùa hè năm 1956, Nguyễn Sơn bị bệnh ung thư. Vì nhớ Tổ quốc, quê hương, ông đã đề đạt nguyện vọng trở về Việt Nam, đã được Đảng và Chính phủ Trung Quốc và Việt Nam chấp nhận. Ông tạ thế tại Hà Nội ngày 21/10/1956. Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hai Đảng Việt Nam - Trung Quốc, nhân dân hai dân tộc Việt - Trung mãi mãi ghi nhận cống hiến của ông với hai đất nước. Hàng ngàn bài báo, quyển sách viết về ông, trong đó có cuốn "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" của bà Trần Kiếm Qua vợ ông, người Trung Quốc. Nhà văn Ngụy Nguyên, Trung Quốc, khi bình luận về cuốn sách này trong tạp chí giao lưu văn hóa Trung Quốc - nước ngoài ra ngày 15/11/2000 có ghi: "Nhân vật chủ yếu nam (Nguyễn Sơn) cũng như nữ trong cuốn sách đã cùng biểu hiện rõ tinh thần chủ nghĩa quốc tế vĩ đại, tinh thần yêu nước nồng nàn chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đó cũng là sự thăng hoa của tinh thần dân tộc kháng chiến… khiến mọi người đều cảm phục. Lý tưởng, niềm tin, lòng quả cảm, kiên trinh được nêu trong "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" là chủ đề có ý nghĩa thời đại". Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn đã vĩnh viễn đi vào cõi vĩnh hằng nhưng cuộc đời và sự nghiệp của ông sẽ mãi mãi là bông hoa đẹp của hai Đảng, hai dân tộc Việt - Trung | |
|
|
No comments:
Post a Comment